Seleznyov trong màu áo Kuban vào năm 2016 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Yevhen Oleksandrovych Seleznyov | ||
Ngày sinh | 20 tháng 7, 1985 | ||
Nơi sinh | Makiivka, Xô viết Ukraina (nay là Ukraina) | ||
Chiều cao | 1,88 m | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2002–2009 | Shakhtar Donetsk | 26 | (7) |
2002–2004 | → Shakhtar-3 Donetsk | 41 | (9) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2005 | U-21 Ukraina | 1 | (0) |
2008–2018 | Ukraina | 58 | (11) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 12 tháng 5 năm 2023 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 14 tháng 6 năm 2019 |
Yevhen Oleksandrovych Seleznyov (tiếng Ukraina: Євген Олександрович Селезньов; sinh ngày 20 tháng 7 năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina.
Anh từng có thời gian khoác áo Shakhtar Donetsk, cùng họ vô địch Cúp UEFA vào năm 2009, rồi ba năm sau là cú đúp danh hiệu nội địa. Anh là vua phá lưới của giải quốc gia ở mùa bóng Shakhtar giành cú đúp danh hiệu, và tiếp tục đoạt danh hiệu này ở mùa bóng tiếp theo với Dnipro.
Kể từ khi lên tuyển vào năm 2008, Seleznyov đã có 50 trận ra sân cho Ukraina, ghi 11 bàn thắng cho đội tuyển. Anh nằm trong đội hình Ukraina khi họ đồng tổ chức giải vô địch châu Âu 2012.
Sinh ra ở Makiivka, Xô viết Ukraina, Liên Xô, Yevhen Seleznyov là sản phẩm của học viện Shakhtar Donetsk và Shakhtar Makiivka. Sau khi được thăng lên cấp độ chuyên nghiệp vào năm 2002, anh chật vật tìm suất đá ở đội một, buộc phải thi đấu cho đội số hai và số ba của câu lạc bộ ở các hạng đấu thấp hơn cũng như đội dự bị. Seleznyov có được cơ hội khẳng định bản thân vào mùa đông năm 2007 khi anh ký hợp đồng cho mượn một năm rưỡi với Arsenal Kyiv. Seleznyov là một trong những chân sút xuất sắc nhất ở giải Ngoại hạng Ukraina 2007–08, anh ghi được 17 bàn sau 24 trận. Ngay sau khi trở về Donetsk, anh được gọi lên đội tuyển quốc gia Ukraina.
Sau khi kết thúc thời hạn cho mượn, anh trở về Donetsk và ký hợp đồng năm năm. Anh ghi bàn đầu tiên cho Shakhtar vào ngày 3 tháng 8 ở trận thắng 3–0 trước Illichivets Mariupol· Anh đá ba trận ở UEFA Champions League, trong đó ở trận thắng 5–0 trên sân nhà trước FC Basel, anh vào sân từ ghế dự bị và ghi một bàn thắng.[1]
Anh có hai lần ra ở Cúp UEFA khi đội giành chức vô địch ngay ở mùa giải đầu tiên của anh tại câu lạc bộ: vào ngày 19 tháng 2 năm 2009, một phút sau khi thế chỗ Oleksandr Hladkyy, anh đón bóng từ quả đá phạt của Jádson và đánh đấu ngay ở pha chạm bóng đầu tiên vào lưới thủ môn Heurelho Gomes của Tottenham Hotspur để mở tỉ số trong trận thắng 2–0.[2]
Ngày 25 tháng 7 năm 2009, Seleznyov ký hợp đồng với đội bóng đối thủ Dnipro Dnipropetrovsk với một thỏa thuận trị giá 4,5 triệu euro. Cùng hôm ấy, anh ghi bàn đầu tiên Dnipro ở trận ra mắt đội trước Metalist Kharkiv. Ở hai mùa giải tiếp theo, Seleznyov tạo dựng chỗ đứng thành một chân sút mục có khả năng săn bàn tốt của Dnipro, đặc biệt là bằng đánh đầu. Anh là vua phá lưới của giải Ngoại hạng Ukraina 2010–11 với 17 bàn sau 24 trận.
Ngày 22 tháng 6 năm 2011, Dnipro bán lại anh cho câu lạc bộ cũ Shakhtar Donetsk. Mức phí chuyển nhượng không được tiết lộ nhưng được ước tính vào khoảng 5 triệu euro.[3][4] Tháng 9 năm 2011, Seleznyov dính vào một vụ Tai nan xe liên hoàn trong lúc lái chiếc xe Maserati ở Donetsk. May mắn thay không có ai bị thương.
Cuối mùa giải 2011–12, Seleznyov là chân sút số một của Shakhtar và là đồng vua phá lưới của giải với Maicon, với 14 bàn, bất chấp Maicon ghi hai bàn đá phạt đền. Seleznyov ghi bàn vào lưới APOEL Nicosia ở trận thắng 2-0 tại Champions League.[5]
Ngày 29 tháng 8 năm 2012, Seleznyov trở lại Dnipro với mức phí không được tiết lộ.
Ngày 7 tháng 5 năm 2015, Seleznyov ghi bàn gỡ hòa ở phút 80 trong trận bán kết lượt đi Europa League trước Napoli, cân bằng tỉ số 1–1 và giúp cho Dnipro có được lợi thế bàn thắng sân khách trước trận lượt về.[6] Một tuần sau, ở trận lượt về tại Sân vận động Olympic ở Kyiv, Seleznyov ghi bàn duy nhất của trận đấu, giúp Dnipro thắng 1–0 để lần đầu lọt vào trận chung kết cúp châu Âu vào ngày 27 tháng 5 năm 2015, với tỉ số chung cuộc là 2–1 sau hai lượt trận.[7] Dnipro thua trận chung kết với tỉ số 3–2, Seleznyov vào sân thi đấu ở phút 78.
Ngày 25 tháng 2 năm 2016, anh ký hợp đồng với đội bóng Nga FC Kuban Krasnodar.[8] Seleznyov được Dnipro thanh lý để cho anh tới Kuban miễn phí với điều kiện Seleznyov sẽ xóa nợ vượt quá một triệu euro của câu lạc bộ.[9] Trước khi ký với Kuban, Seleznyov đã từ chối đề nghị từ một vài câu lạc bộ ở giải Ngoại hạng Anh.[10]
Ngày 11 tháng 5 năm 2016, trong một buổi phỏng vấn với kênh Football 1, Yevhen Seleznyov xác nhận anh đã hủy hợp đồng với Kuban.[11] Mùa giải kế tiếp chứng kiến Kuban bị rớt khỏi Giải bóng đá Hạng nhất Nga.
Ngày 14 tháng 5 năm 2016, FC Shakhtar Donetsk xác nhận câu lạc bộ đã ký hợp đồng hai năm với Seleznyov.[12] Tháng 12 năm 2016, Seleznyov rời câu lạc bộ theo đồng thuận chung giữa hai bên.[13]
Chưa đầy một tuần sau khi chia tay Shakhtar, một nguồn tin cho biết Seleznyov đã ký hợp đồng với Kardemir Karabükspor - câu lạc bộ chỉ vừa mới quay trở lại giải vô địch quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày 10 tháng 5 năm 2018, Seleznyov giúp câu lạc bộ Akhisar Belediyespor giành danh hiệu chuyên nghiệp đầu tiên tại Cúp quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ 2017–18.[14]
Ngày 24 tháng 5 năm 2008, anh có trận ra mắt đội tuyển quốc gia Ukraina ở một trận đấu giao hữu với Hà Lan. Anh ghi bàn đầu tiên cho đội tuyển vào lưới Na Uy tại Dnipropetrovsk vào ngày 19 tháng 11 - đây cũng là bàn thắng duy nhất của trận đấu.
Seleznyov được chọn lên đội tuyển Ukraina khi họ đồng tổ chức giải vô địch châu Âu 2012, nhưng không có cơ hội vào sân thi đấu do đội bị loại ở vòng bảng.
Ngày 6 tháng 9 năm 2013, Seleznyov là một trong số chín cầu thủ Ukraina ghi bàn trong trận thắng hủy diệt 9–0 trước San Marino tại Arena Lviv, thuộc vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2014.[15] Anh ghi bàn cú đúp bàn thắng đầu tiên cho tuyển vào ngày 15 tháng 10 ở trận lượt đi, khi Ukraina thắng 8–0 tại Serravalle;[16] kết quả này đã mang về tấm vé cho Ukraina dự vòng play-off, song họ để thua Pháp.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải quốc gia | Cúp quốc gia | Liên lục địa | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Số trận | Số bàn thắng | Số trận | Số bàn thắng | Số trận | Số bàn thắng | Số trận | Số bàn thắng | Số trận | Số bàn thắng | ||
Arsenal Kyiv | 2006–07 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 12 | 2 | 0 | 0 | – | – | 12 | 2 | ||
2007–08 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 24 | 17 | 0 | 0 | – | – | 24 | 17 | |||
Tổng cộng | 36 | 19 | 0 | 0 | – | – | 36 | 19 | ||||
Shakhtar Donetsk | 2008–09 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 26 | 7 | 2 | 2 | 2 | 2 | 1 | 0 | 31 | 11 |
Dnipro Dnipropetrovsk | 2009–10 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 27 | 13 | 3 | 3 | – | – | 30 | 16 | ||
2010–11 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 24 | 17 | 3 | 1 | 2 | 1 | – | 29 | 19 | ||
Tổng cộng | 51 | 30 | 6 | 4 | 2 | 1 | – | 59 | 35 | |||
Shakhtar Donetsk | 2011–12 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 23 | 14 | 2 | 0 | 3 | 1 | 1 | 0 | 29 | 15 |
2012–13 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 3 | 2 | 0 | 0 | – | – | 3 | 2 | |||
Tổng cộng | 26 | 16 | 2 | 0 | 3 | 1 | 1 | 0 | 32 | 17 | ||
Dnipro Dnipropetrovsk | 2012–13 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 22 | 7 | 4 | 0 | 6 | 3 | – | 32 | 10 | |
2013–14 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 29 | 13 | 1 | 1 | 7 | 2 | – | 37 | 16 | ||
2014–15 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 21 | 8 | 5 | 3 | 13 | 2 | – | 39 | 13 | ||
2015–16 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 16 | 10 | 2 | 1 | 5 | 2 | – | 23 | 13 | ||
Tổng cộng | 88 | 38 | 12 | 5 | 31 | 9 | – | 131 | 52 | |||
Kuban Krasnodar | 2015–16 | Giải Ngoại hạng Nga | 9 | 3 | 1 | 0 | – | – | 10 | 3 | ||
Shakhtar Donetsk | 2016–17 | Giải Ngoại hạng Ukraina | 3 | 1 | 1 | 0 | 2 | 1 | 1 | 0 | 7 | 2 |
Karabükspor | 2016–17 | Süper Lig | 16 | 6 | 0 | 0 | – | – | 16 | 6 | ||
2017–18 | Süper Lig | 13 | 1 | 2 | 1 | – | – | 15 | 2 | |||
Tổng cộng | 29 | 7 | 2 | 1 | – | – | 31 | 8 | ||||
Akhisar Belediyespor | 2017–18 | Süper Lig | 17 | 6 | 5 | 4 | – | – | 22 | 10 | ||
2018–19 | Süper Lig | 7 | 3 | 0 | 0 | 3 | 0 | 1 | 1 | 11 | 4 | |
Tổng cộng | 24 | 9 | 5 | 4 | 3 | 0 | 1 | 1 | 33 | 14 | ||
Málaga | 2018–19 | Segunda División | 12 | 0 | 0 | 0 | – | – | 12 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 304 | 130 | 31 | 16 | 43 | 14 | 4 | 1 | 377 | 161 |
Ukraina | ||
Năm | Số trận | Số bàn thắng |
---|---|---|
2008 | 5 | 1 |
2009 | 8 | 3 |
2010 | 7 | 1 |
2011 | 7 | 0 |
2012 | 6 | 0 |
2013 | 9 | 4 |
2014 | 0 | 0 |
2015 | 6 | 2 |
2016 | 4 | 0 |
2017 | 3 | 0 |
2018 | 3 | 0 |
2019 | 0 | 0 |
Tổng cộng | 58 | 11 |
FC Shakhtar Donetsk
FC Dnipro Dnipropetrovsk
Akhisar Belediyespor