÷ (album)

÷
Album phòng thu của Ed Sheeran
Phát hành3 tháng 3 năm 2017
Thu âm2016
Thể loạiPop[1][2]
Thời lượng46:14
Hãng đĩaAsylum/Atlantic
Sản xuất
Thứ tự album của Ed Sheeran
5
(2015)
÷
(2017)
No.6 Collaborations Project
(2019)
Đĩa đơn từ ÷
  1. "Castle on the Hill"
    Phát hành: 6 tháng 1 năm 2017
  2. "Shape of You"
    Phát hành: 6 tháng 1 năm 2017
  3. "Galway Girl"
    Phát hành: 17 tháng 3 năm 2017
  4. "Perfect"
    Phát hành: 26 tháng 9 năm 2017
  5. "Happier"
    Phát hành: 27 tháng 4 năm 2018

÷ (phát âm là divide, nghĩa là "dấu chia") là album phòng thu thứ ba của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Ed Sheeran. Album được phát hành vào ngày 3 tháng 3 năm 2017 thông qua Asylum RecordsAtlantic Records. "Castle on the Hill" và "Shape of You" được phát hành dưới dạng các đĩa đơn chính vào ngày 6 tháng 1 năm 2017.

Album ra mắt ở vị trí đầu bảng xếp hạng Anh quốc với doanh số 672.000 bản trong tuần đầu, trở thành album bán nhanh nhất của nghệ sĩ nam tại đây và có doanh số tuần đầu cao thứ ba sau 25 của AdeleBe Here Now của Oasis. Ngoài ra, album còn đứng đầu bảng xếp hạng ở 14 nước, trong đó có Mỹ, Canada và Úc. Tất cả các bài hát trong album đều lọt vào top 20 của UK Singles Chart trong tuần đầu nhờ lượng stream cao. Sự lấn lướt của các bài hát trong ÷ trên UK dẫn tới việc kêu gọi thay đổi cách tính bảng xếp hạng đĩa đơn,[3] buộc Official Charts Company phải giới hạn số track trong top 100 xuống còn ba track, cũng như áp dụng tỉ lệ mới cho lượt nghe/lượt tải cho các bài hát cũ.[4]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 13 tháng 12 năm 2015, Sheeran tuyên bố tạm thời rời xa mạng xã hội vì cảm thấy bản thân "nhìn thế giới qua màn hình chứ không phải đôi mắt của mình".[5]. Sheeran cũng xác nhận rằng một phần quãng thời gian ấy sẽ được dùng để sản xuất album thứ ba, album mà anh coi là "điều tuyệt nhất mà tôi từng làm cho đến nay". Đúng một năm sau lời tuyên bố trên, vào ngày 13 tháng 12 năm 2016, nhiều trang mạng xã hội của Sheeran đã đăng lên một hình vuông có nền xanh da trời để khẳng định sự trở lại sắp tới.[6]. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2017, Sheeran chính thức trở lại bằng việc thông báo rằng "nhạc mới" sẽ được phát hành vào ngày 6 tháng 1 năm 2017.[7]. Vào ngày 12 tháng 1 năm 2017, Sheeran tiết lộ danh sách bài hát và ngày phát hành của album.[8][9]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"Shape of You" và "Castle on the Hill", hai đĩa đơn mở đầu của album, được phát hành vào ngày 6 tháng 1 năm 2017. Sheeran quảng bá hai bài hát trên các trang mạng xã hội trong một tuần trước khi hai đĩa đơn được phát hành, đăng lên đoạn trích phần nhạc và lời mở đầu của từng bài hát.[10][11]

"Galway Girl" được công bố là đĩa đơn thứ ba trên tài khoản Twitter của Sheeran vào ngày 17 tháng 3 năm 2017.[12]

Đĩa đơn quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

"How Would You Feel (Paean)" được phát hành vào ngày 17 tháng 2 năm 2017 dưới dạng đĩa đơn quảng bá.[13]

Một phiên bản acoustic của "Eraser" xuất hiện trên kênh YouTube của SB.TV vào 28 tháng 2 năm 2017.[14][15]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic62/100[16]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[1]
Consequence of SoundC-[2]
Daily Express[17]
The Daily Telegraph[18]
Entertainment WeeklyB-[19]
The Guardian[20]
The Independent[21]
NME[22]
Pitchfork2.8/10[23]
Rolling Stone[24]

÷ đã được đánh giá 62 điểm từ Metacritic dựa trên 17 bài đánh giá, cho thấy "những đánh giá thuận lợi".[16][25] Martin Townsend của tờ Daily Express đã đưa ra một đánh giá năm sao tích cực, gọi đó là "bộ sưu tập mạnh mẽ nhất của Ed" và "một bản thu âm huyền diệu và rực rỡ" và cũng nói rằng "Ed đã làm được điều khó khăn nhất trong nhạc pop, anh đã viết và trình diễn những bài hát liên quan đến cuộc sống thực tại trong thị trấn nhỏ, nhưng đã động đến trái tim của đám đông".[17] Maura Johnston của Rolling Stone đưa ra một bài bình luận bốn sao, bình luận rằng "Ed vẫn cho thấy sự hiểu biết của nhạc pop về Divide " và anh cho biết thêm rằng anh đã "có sự pha trộn giữa sự dũng cảm của hip-hop và bài viết sáng tác hàng ngày, giúp anh thoát khỏi sự thay đổi của thập niên".[24] Roisin O'Connor của The Independent cũng cho album một đánh giá 4 sao, khẳng định rằng "[album] dựa vào những tài năng của Sheeran" và rằng "đáng kinh ngạc vì tham vọng nhẹ nhàng của anh ấy".[21] Jordan Bassett của NME mô tả album là "một bộ sưu tập, bằng cách nào đó, tuân thủ mẫu nhạc pop hoàn hảo của anh ấy... trong khi cũng lặng lẽ kỳ lạ", và rằng album "dễ chịu", "đảm bảo nhưng khiêm tốn và đôi khi khó để hiểu được".[22] Mark Kennedy của Associated Press, sau khi bình luận về những "nhầm lẫn" của album, nói rằng album "chắc chắn sẽ thêm người nghe, trừ một vài sự mệt mỏi của sự không thống nhất của anh, nhưng chắc chắn nó sẽ làm tăng tài khoản ngân hàng của anh ấy" và cuối cùng gọi Sheeran là "một tài năng đặc biệt.[26]

Một số nhận xét thì lại mang ý kiến trái chiều; Harriet Gibsone của The Guardian đã cho album xếp hạng hai trên năm một cách tiêu cực, gọi nó "không kém phần tính toán hơn những người bạn của anh ở mức đỉnh cao của ngôi sao nhạc pop".[20] Trong một đánh giá tiêu cực 2,8 trên 10, Laura Snapes của Pitchfork đã nói: "xem anh [Sheeran] là một trong những nhà soạn nhạc thành công nhất trên thế giới, rất nhiều lời bài hát của anh thậm chí không cần kiểm tra nhịp điệu."[23] Trong một bài đánh giá tiêu cực, viết cho Drowned in Sound, David Hillier đã cho ÷ đánh giá 3/10, gọi nó là "album nhạt nhẽo nhất có thể".[27]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Album bán được 232.000 bản đĩa cứng và kĩ thuật số ở Vương quốc Anh chỉ trong ngày đầu tiên phát hành (không tính stream), hơn cả doanh số của album x của chính Ed Sheeran trong tuần đầu tiên.[28] Trong ba ngày, album tiếp tục gia tăng doanh số và bán ra trên 432.000 bản, qua đó đứng đầu UK Albums Chart trong chỉ ba ngày đầu phát hành. Có 63% album bán ra là đĩa cứng, 31% là kỹ thuật số và 6% là stream quy đổi.[29] Album bán ra tổng cộng 672.000 tại Anh trong tuần đầu tiên, trở thành album bán ra nhanh nhất tại Anh của một nghệ sĩ nam và cao thứ ba sau 25 của Adele (800.307 bản trong tuần đầu) và Be Here Now của Oasis (696.000 bản).[30] Trong tuần lễ mở màn của ÷, cả ba album của Sheeran đều có mặt trong top 5 ở Anh. Album cũng phá kỷ lục về số bài hát top 10 trong một album trên UK Singles Chart (9 bài), phá kỷ lục trước đó của Calvin Harris. Cả 16 bài hát trong album đều lọt vào top 20.[31][32] Album đạt doanh thu một triệu bản tại Anh chỉ trong có 16 ngày.[33] Tính tới tháng 4 năm 2017, album bán ra 1,3 triệu bản tại Anh.[34]

Số lượng lớn bài hát trong album có trên UK Singles Chart khiến người ta kêu gọi xem xét lại cách tính bảng xếp hạng.[3] Để giải quyết mâu thuẫn này đồng thời tạo cơ hội cho các nghệ sĩ mới, Official Charts Company ra luật mới: số lượng bài hát trong top 100 của một nghệ sĩ hát chính là 3, có hiệu lực từ 7 tháng 7 năm 2017. Công ty cũng thay đổi tỉ lệ quy đổi streams-to-sales đối với các bài hát cũ có doanh thu giảm trong ba tuần liên tiếp hoặc bất cứ bài hát nào có mặt trên bảng xếp hạng được 10 tuần, qua đó nhanh chóng loại bỏ các bài hát đó khỏi bảng xếp hạng.[4][35]

÷ ra mắt ở vị trí quán quân trên Billboard 200 với 451.000 bản, trong đó 322.000 là doanh thu thuần.[36] Tổng cộng các bài hát thu về 134,6 triệu lượt stream tại Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên.[36] Mười bài hát trong album cũng có mặt trên Hot 100 trong tuần lễ album được phát hành.[37] Trong tuần thứ hai album vẫn giữ vị trí quán quân Billboard 200 với 180.000 bản,[38] qua đó đạt chứng nhận vàng từ RIAA vào ngày 22 tháng 3 năm 2017.[39] Tính tới 4 tháng 7 năm 2017, ÷ là album bán chạy nhất tại Hoa Kỳ năm 2017 với 743.000 bản được tiêu thụ.[40]

Trong ngày đầu phát hành album, tổng lượt nghe các bài hát trên Spotify đạt 56,73 triệu lượt, phá kỷ lục 29 triệu của album StarboyThe Weeknd lập vào tháng 11 năm 2016. Tổng cộng trong ngày hôm đó tất cả các bài hát của Ed Sheeran được phát 68,7 triệu lần trên Spotify, trong đó mình ca khúc "Shape of You" đã có 10,12 triệu lượt và cả hai thành tích vừa nêu trên đều là các kỷ lục mới được xác lập trên Spotify.[41] Tuy nhiên cả hai kỷ lục này đồng loạt bị More Life của Drake phá vỡ 16 ngày sau đó.[42]

Tại Ireland, ÷ mở hàng ở vị trí số một, trong khi cả ba album của Ed Sheeran đều lọt vào top 5. Thêm vào đó, cả 16 vị trí đầu tiên của Irish Singles Chart hoàn toàn là các bài hát trong ÷.[43] Tại Úc, album cũng mở hàng ở ngôi số một và nhận ngay chứng nhận Bạch kim đôi trong tuần đầu tiên với 97.014 bản.[44] Sheeran cũng lập kỷ lục với 18 bài hát trong top 40 tại Úc trong cùng một tuần — 16 trong đó thuộc album ÷.[45] Album cũng đứng đầu tại các bảng xếp hạng Bỉ (Flanders), Đức, Ý, Hà Lan, New Zealand và Thụy Điển.[46] Tựu trung lại album debut ở vị trí quán quân tại hơn 14 nước.[47]. Tính đến năm 2019, Album đã bán được 20 triệu bản trên toàn cầu

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Phiên bản tiêu chuẩn[48]
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
1."Eraser"
  • McDaid
  • Sheeran[a]
3:47
2."Castle on the Hill"Benny Blanco4:21
3."Dive"
Blanco3:58
4."Shape of You"
3:53
5."Perfect"Sheeran[50]
  • Will Hicks
  • Sheeran
  • Blanco[b]
4:23
6."Galway Girl"Mike Elizondo2:50
7."Happier"
Blanco3:27
8."New Man"Blanco3:09
9."Hearts Don't Break Around Here"
  • Sheeran
  • McDaid
4:08
10."What Do I Know?"
  • Sheeran
  • McDaid
  • Vance[50]
  • McDaid
  • Sheeran
3:57
11."How Would You Feel (Paean)"SheeranSheeran4:40
12."Supermarket Flowers"
  • Sheeran
  • McDaid
  • Levin[55]
  • Blanco
  • McDaid
  • Sheeran[a]
3:41
Tổng thời lượng:46:14
Phiên bản đặc biệt[56]
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
13."Barcelona"
  • Sheeran
  • Wadge
  • Levin
  • Vance
  • McDaid
[57]
  • Blanco
  • Ed Sheeran
3:11
14."Bibia Be Ye Ye"
[58]
  • Blanco
  • KillBeatz
  • Sheeran
2:56
15."Nancy Mulligan"
  • Sheeran
  • Wadge
  • Vance
  • McDaid
  • Murray Cummings
  • Levin
[59]
  • Blanco
  • Sheeran
2:59
16."Save Myself"
[60]
4:07
Tổng thời lượng:59:27

Ghi chú

Danh sách người tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn: AllMusic.[63]

  • Leo Abrahams – guitar
  • Laurie Anderson – viola
  • Graham Archer – engineer
  • Brent Arrowood – trợ lý engineer
  • Charlotte Audery – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế
  • Thomas Bartlett – keyboard, piano
  • Fenella Barton – vĩ cầm
  • Benny Blanco – sản xuất phụ, giám đốc sản xuất, keyboard, sản xuất, programming, giọng bè
  • Leon Bosch – double bass
  • Liam Bradley – dương cầm, giọng bè
  • Karl Brazil – trống
  • Archie Carter – trợ lý engineer
  • Nick Cartledge – sáo, piccolo
  • Meghan Cassidy – viola
  • Travis Cole – giọng bè
  • Ben Cook – A&R
  • Nick Cooper – cello
  • Johnny Costello – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế
  • Damian McKeephong cầm phím, giọng bè
  • Mandhira De Saram – vĩ cầm
  • Matthew Denton – vĩ cầm
  • James Dickenson – vĩ cầm
  • Dj Final – scratching
  • Alison Dods – vĩ cầm
  • Eamon Murraybodhrán, giọng bè
  • Mike Elizondo – programming trống, keyboard, dương cầm, sản xuất, synthesizer bass
  • Brian Finnegan – tin whistle
  • Michael Freeman – trợ lý mixer
  • Duncan Fuller – trợ lý, trợ lý engineer
  • Geo Gabriel – giọng bè
  • Oscar Golding – bass
  • Sean Grahamphong cầm, giọng bè
  • Laurence Love Greed – dương cầm
  • Charys Green – clarinet
  • Peter Gregson – cello, conductor
  • Stuart Hawkes – mastering
  • Adam Hawkins – engineer
  • Wayne Hernandez – giọng bè
  • Will Hicks – guitar điện, percussion, sản xuất, programming
  • Ed Howard – A&R
  • Martyn Jackson – vĩ cầm
  • Katherine Jenkinson – cello
  • Magnus Johnston – vĩ cầm
  • Marije Johnston – vĩ cầm
  • Matt Jones – trợ lý
  • Simon Hewitt Jones – vĩ cầm
  • Patrick Kiernan – vĩ cầm
  • Trevor Lawrence Jr. – trống
  • Chris Laws – trống, engineer
  • Jay Lewis – trống
  • Tim Lowe – cello
  • Steve Mac – keyboard, producer
  • Ammar Malik – giọng bè
  • Kirsty Mangan – vĩ cầm
  • John Mayer – guitar điện
  • Johnny McDaid – guitar, guitar acoustic, keyboard, dương cầm, sản xuất, programming, giọng bè
  • Jeremy Morris – vĩ cầm
  • L'Angelo Mysterioso – guitar
  • Niamh Dunnefiddle, giọng bè
  • George Oulton – trợ lý
  • Pino Palladino – bass
  • Phillip Peterson – nhạc cụ dây
  • Dann Pursey – engineer
  • Jan Regulski – vĩ cầm
  • Rachel Roberts – viola
  • David Rowan – bìa đĩa, chụp ảnh
  • Mikey Rowe – keyboard
  • Joe Rubel – programming trống, engineer, guitar, guitar điện, synthesizer
  • Ben Russell – double bass
  • Kotono Sato – viola
  • Chris Sclafani – engineer
  • Robert Sellens – trợ lý engineer
  • Ed Sheeran – bass, body percussion, cello, vẽ bìa đĩa, trống, giám đốc sản xuất, guitar, guitar acoustic, guitar điện, mandolin, nhạc cụ gõ, sản xuất, giọng hát, giọng bè
  • Matthew Sheeran – string arrangement
  • Hilary Skewes – coordination
  • Francis Farewell Starlite – giọng bè
  • Mark "Spike" Stent – mixing
  • Geoff Swan – trợ lý mixer
  • Leo Taylor – trống
  • Ryan Tedder – dương cầm
  • John Tilley – Hammond organ, piano
  • Jessie Ware – giọng bè
  • Andy Wells – trợ lý
  • Deborah Widdup – vĩ cầm

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng (2017) Vị trí
cao nhất
Album Úc (ARIA)[64] 1
Album Áo (Ö3 Austria)[65] 1
Album Bỉ (Ultratop Vlaanderen)[66] 1
Album Bỉ (Ultratop Wallonie)[67] 2
Brasil (Billboard Brasil)[68] 1
Album Canada (Billboard)[69] 1
Album Quốc tế Croatia (HDU)[70] 1
Album Cộng hòa Séc (ČNS IFPI)[71] 1
Album Đan Mạch (Hitlisten)[72] 1
Album Hà Lan (Album Top 100)[73] 1
Album Phần Lan (Suomen virallinen lista)[74] 1
Album Pháp (SNEP)[75] 1
Album Đức (Offizielle Top 100)[76] 1
Album Hy Lạp (IFPI)[77] 5
Album Hungaria (MAHASZ)[78] 1
Album Ireland (IRMA)[79] 1
Album Ý (FIMI)[80] 1
Album Nhật Bản (Oricon)[81] 5
México (AMPROFON)[82] 2
Album New Zealand (RMNZ)[83] 1
Album Na Uy (VG-lista)[84] 1
Album Ba Lan (ZPAV)[85] 1
Album Bồ Đào Nha (AFP)[86] 1
Album Scotland (OCC)[87] 1
Album Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[88] 1
Album Thụy Điển (Sverigetopplistan)[89] 1
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[90] 1
Album Anh Quốc (OCC)[91] 1
Hoa Kỳ Billboard 200[92] 1

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[93] 4× Bạch kim 280.000^
Áo (IFPI Áo)[94] Bạch kim 15.000double-dagger
Bỉ (BEA)[95] Bạch kim 20.000*
Canada (Music Canada)[96] Bạch kim 80.000double-dagger
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[97] 3× Bạch kim 60.000double-dagger
Pháp (SNEP)[98] 2× Bạch kim 200.000double-dagger
Đức (BVMI)[99] 2× Bạch kim 400.000double-dagger
Hungary (Mahasz)[100] 2× Bạch kim 12.000^
Ý (FIMI)[101] Bạch kim 50.000*
México (AMPROFON)[102] Vàng 30.000^
New Zealand (RMNZ)[103] 4× Bạch kim 60.000^
Ba Lan (ZPAV)[104] Bạch kim 20.000double-dagger
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[105] Vàng 20.000double-dagger
Thụy Điển (GLF)[106] 2× Bạch kim 80.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[107] 6× Bạch kim 1.800.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[39] Bạch kim 743.000[40]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Erlewine, Stephen Thomas. “Ed Sheeran – ÷”. AllMusic. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017.
  2. ^ a b Camp, Zoe (8 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran – ÷ (The singer-songwriter doubles down on quirky pop without pushing forward)”. Consequence of Sound. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2017.
  3. ^ a b Halliday, Josh (13 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran singles chart takeover spurs calls for 'drastic rethink'. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2017.
  4. ^ a b Sutherland, Mark (27 tháng 6 năm 2017). “Official Charts Company introduces singles chart revamp”. Music Week. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  5. ^ “Instagram photo by Ed Sheeran • Dec 13, 2015 at 6:29am UTC”. Instagram. Truy cập 20 tháng 1 năm 2017.
  6. ^ “Ed Sheeran trên Twitter: t.co/Lt6iFgToC2 (Tweet)”. Twitter. 13 tháng 12 năm 2016. |tên 1= thiếu |tên 1= (trợ giúp)
  7. ^ "Hello 2017.....". Twitter. edsheeran. 1 tháng 1 năm 2017.
  8. ^ “÷ out 3rd March. Pre-order will go live at midnight in your country x”. Twitter. edsheeran. 12 tháng 1 năm 2017.
  9. ^ “Ed Sheeran Shares Tracklist, Cover Art, and Release Date for New Album '÷'. Complex. Truy cập 20 tháng 1 năm 2017.
  10. ^ @edsheeran (5 tháng 1 năm 2017). “Ed Sheeran on Twitter: – t.co/7Q1oH51Xfe” (Tweet) – qua Twitter.
  11. ^ @edsheeran (3 tháng 1 năm 2017). “When I was six years old I broke my leg...” (Tweet) – qua Twitter.
  12. ^ “Ed Sheeran trên Twitter”. Twitter. Truy cập 17 tháng 3 năm 2017.
  13. ^ Sheeran, Ed. “How Would You Feel (Paean) comes out tomorrow at midnight wherever you are in the world, it's not the next single, but is one of my favzzzzz”. Twitter.com. Twitter. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2017.
  14. ^ SBTV: Music (28 tháng 2 năm 2017), Ed Sheeran | Eraser (Live) [Extended F64 Version]: #SBTV10, truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2017
  15. ^ “Ed Sheeran Debuts New Song 'Eraser' With Live Performance Video”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2017.
  16. ^ a b “Reviews for Divide”. Metacritic. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
  17. ^ a b Townsend, Martin (5 tháng 3 năm 2017). “Album reviews: Ed Sheeran's Divide and Laura Marling's Semper Femina”. Daily Express. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2017.
  18. ^ McCormick, Neil (3 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran, ÷ (Divide), review: Singer's third album perfects a pop formula”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
  19. ^ Farber, Jim (6 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran's ÷ (Divide): EW Review”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2017.
  20. ^ a b Gibsone, Gibsone (3 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran: ÷ review – everybloke charm fails to mask Divide's calculating soul”. The Guardian. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
  21. ^ a b O'Connor, Roisin (3 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran, Divide, album review: Singer-songwriter's third record is impressive for ambition alone”. The Independent. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
  22. ^ a b Bassett, Jordan (3 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran – '÷' Review”. NME. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
  23. ^ a b Snapes, Laura (10 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran: Divide Album Review”. Pitchfork. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2017.
  24. ^ a b Johnston, Maura (6 tháng 3 năm 2017). “Review: Ed Sheeran Still Showcasing Pop Savvy on 'Divide'. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2017. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  25. ^ Kitchener, Shaun (3 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran Divide reviews: What are critics saying about British superstar's new album?”. Daily Express. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2017.
  26. ^ Kennedy, Mark (3 tháng 3 năm 2017). “Review: Ed Sheeran shows vast talent in new album 'Divide'. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2017.
  27. ^ “Album Review: Ed Sheeran - ÷”. Drowned in Sound. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017.
  28. ^ White, Jack (4 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran's ÷ takes early Official Albums Chart lead with 232,000 copies sold in just one day”. Official Charts Company.
  29. ^ Lars, Brandle (6 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran on Course for U.K. Chart Double as 'Divide' Delivers Monster Early Sales”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2017.
  30. ^ Copsey, Rob (10 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran's ÷ is the fastest-selling album by a male artist ever”. Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2017.
  31. ^ “Official Singles Chart Top 40 - Official Charts Company”. officialcharts.com. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2017.
  32. ^ Frankel, Jillian (10 tháng 3 năm 2017). “Calvin Harris Congratulates Ed Sheeran for Breaking His U.K. Chart Record: 'I Love You But Also F--- You'. Billboard.
  33. ^ Copsey, Rob (20 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran's ÷ crosses 1 million in 16 days, heads for third week at Number 1”. Official Charts Company. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2017.
  34. ^ O'Connor, Roisin (10 tháng 4 năm 2017). “Ed Sheeran album boosts UK music industry with sales up by more than 10% in first quarter”. The Independent. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2017.
  35. ^ Moore, Sam (26 tháng 6 năm 2017). “Official Charts Company introduces new rules that could prevent repeat of Ed Sheeran's chart dominance”. NME. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2017.
  36. ^ a b Caulfield, Keith (12 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran's 'Divide' Bows at No. 1 on Billboard 200 Chart With 2017's Biggest Debut”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  37. ^ Trust, Gary (13 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran Stays Atop Hot 100, Clean Bandit Bounds to Top 10”. Billboard. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2017.
  38. ^ Caulfield, Keith (19 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran's 'Divide' Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200, 'Beauty and the Beast' Debuts at No. 3”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2017.
  39. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Ed Sheeran – Divide” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  40. ^ a b Caulfield, Keith (4 tháng 7 năm 2017). “Kendrick Lamar's 'DAMN.' & Ed Sheeran's 'Shape of You' Lead Nielsen Music's Mid-Year 2017 Charts”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2017.
  41. ^ Ingham, Tim (4 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran obliterates Spotify records with 68.7m streams in a day”. Music Business Worldwide.
  42. ^ Dandridge-Lemco, Ben (20 tháng 3 năm 2017). “Drake Broke Two Major Spotify Streaming Records With The Release Of More Life”. The Fader. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2017.
  43. ^ “Divide and conquer! Ed-mania causes Irish charts meltdown”. RTE. 10 tháng 3 năm 2017.
  44. ^ “Ed Sheeran makes record album sales in Australia, and will now star in Game of Thrones”. News.com.au. 13 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2017.
  45. ^ Brandle, Lars (12 tháng 3 năm 2017). “Records Tumble as Ed Sheeran Dominates Australia's Charts”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  46. ^ Jones, Alan (10 tháng 3 năm 2017). “International Charts Analysis: Ed Sheeran rules the rest of the world too”. MusicWeek. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  47. ^ Copsey, Rob (13 tháng 3 năm 2017). “How Ed Sheeran's ÷ performed in the charts across the world”. The Official Charts Company.
  48. ^ "÷" (Deluxe) by Ed Sheeran”. iTunes. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  49. ^ “ACE Repertory”. ASCAP. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2017.
  50. ^ a b AMCOS, APRA. “APRA AMCOS”. apraamcos.com.au. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  51. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  52. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  53. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  54. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  55. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  56. ^ “Ed Sheeran has revealed the release date of his new album, Divide”. The Independent. 11 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017.
  57. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  58. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  59. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  60. ^ Repertory, ACE. “ACE Repertory”. ascap.com. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2017.
  61. ^ Nelson, Jeff (15 tháng 3 năm 2017). “Ed Sheeran Opens Up About His A-List Pals, from His Clapton Collab to Taking Shots with Beyoncé ('She Was So Confused!')”. PEOPLE.com. People. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2017.
  62. ^ “Ed Sheeran – ÷ (Divide) (CD, Album) at Discogs”.
  63. ^ “÷ - Ed Sheeran | Credits | AllMusic”. AllMusic. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2017.
  64. ^ "Australiancharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 11 March 2017.
  65. ^ "Austriancharts.at – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập 16 March 2017.
  66. ^ "Ultratop.be – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập 11 March 2017.
  67. ^ "Ultratop.be – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập 11 March 2017.
  68. ^ “Billboard Brasil – Billboard 200”. Billboard Brasil. Bản gốc (click on Billboard 200) lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  69. ^ "Ed Sheeran Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 14 March 2017.
  70. ^ "Top Stranih [Top Foreign]" (bằng tiếng Croatia). Top Foreign Albums. Hrvatska diskografska udruga. Truy cập 26 April 2017.
  71. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn {{{date}}} trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập 14 March 2017.
  72. ^ "Danishcharts.dk – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 15 March 2017.
  73. ^ "Dutchcharts.nl – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập 11 March 2017.
  74. ^ "Ed Sheeran: ÷" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập 12 March 2017.
  75. ^ “Le Top de la semaine: Top Albums – SNEP (Week 13, 2017)”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  76. ^ "Offiziellecharts.de – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập 10 March 2017.
  77. ^ “Official Greece Charts Top-75 Albums Sales Chart, Εβδομάδα: 13/2017”. IFPI Greece. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2017.
  78. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2017. 10. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập 17 March 2017.
  79. ^ “irish-charts.com – Discography Ed Sheeran”. Hung Medien. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2017.
  80. ^ "Italiancharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 11 March 2017.
  81. ^ "Oricon Top 50 Albums: 2017-03-13" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập 10 March 2017.
  82. ^ “Top Album - Semanal (del 07 de Abril al 13 de Abril)” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2017.
  83. ^ "Charts.nz – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 10 March 2017.
  84. ^ "Norwegiancharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 12 March 2017.
  85. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập 16 March 2017.
  86. ^ "Portuguesecharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 23 March 2017.
  87. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 11 March 2017.
  88. ^ "Spanishcharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 16 March 2017.
  89. ^ "Swedishcharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập 11 March 2017.
  90. ^ "Swisscharts.com – Ed Sheeran – %F7 %5BDivide%5D" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập 15 March 2017.
  91. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 11 March 2017.
  92. ^ "Ed Sheeran Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 13 March 2017.
  93. ^ “ARIA Australian Top 50 Albums”. Australian Recording Industry Association. 29 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2017.
  94. ^ “Chứng nhận album Áo – Ed Sheeran – ÷” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2017.
  95. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2017” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  96. ^ “Chứng nhận album Canada – Ed Sheeran – ÷” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2017.
  97. ^ “Ed Sheeran "Divide" (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Denmark. 2 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2017.
  98. ^ “Chứng nhận album Pháp – Ed Sheeran – ÷” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2017.
  99. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Ed Sheeran; '÷')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
  100. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2017” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  101. ^ “Chứng nhận album Ý – Ed Sheeran – ÷” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017. Chọn "2017" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "÷" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  102. ^ “Certificados Musicales Amprofon - May 2017”. Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. 17 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2017.
  103. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Ed Sheeran – Divide” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  104. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2017 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2017.
  105. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha – Ed Sheeran – Divide”. El portal de Música. Productores de Música de España. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017.
  106. ^ “Sverigetopplistan - Sveriges Officiella Topplista” (Để truy cập, điền "Ed Sheeran" vào mục tìm kiếm và chọn "Search by Keyword") (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
  107. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Ed Sheeran – Divide” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2017. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Divide vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
Hướng dẫn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma - Genshin Impact
trong bài viết dưới đây mình sẽ hướng các bạn lấy thành tựu Xạ thủ đạn ma
Gianni Rivera: Nhạc trưởng số 1 của AC Milan
Gianni Rivera: Nhạc trưởng số 1 của AC Milan
Người hâm mộ bóng đá yêu mến CLB của mình vì nhiều lý do khác nhau, dù hầu hết là vì lý do địa lý hay gia đình
Hướng dẫn sử dụng Odin – Thor's Father Valorant
Hướng dẫn sử dụng Odin – Thor's Father Valorant
Trong không đa dạng như Rifle, dòng súng máy hạng nặng của Valorant chỉ mang tới cho bạn 2 lựa chọn mang tên hai vị thần
Tổng quan về Mangekyō Sharingan - Naruto
Tổng quan về Mangekyō Sharingan - Naruto
Vạn Hoa Đồng Tả Luân Nhãn là dạng thức cấp cao của Sharingan, chỉ có thể được thức tỉnh và sử dụng bởi rất ít tộc nhân gia tộc Uchiha