Đông Thanh
|
|||
---|---|---|---|
Xã | |||
Xã Đông Thanh | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | ![]() | ||
Vùng | Bắc Trung Bộ | ||
Tỉnh | Thanh Hóa | ||
Thành phố | Thanh Hóa | ||
Trụ sở UBND | Thôn Ngọc Tích | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 19°50′50″B 105°41′46″Đ / 19,84722°B 105,69611°Đ | |||
| |||
Diện tích | 5,80 km²[1] | ||
Dân số (2022) | |||
Tổng cộng | 7.220 người[1] | ||
Mật độ | 1.245 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh,... | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 16402[2] | ||
Mã bưu chính | 40808 | ||
Website | dongthanh | ||
Đông Thanh là một xã thuộc thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Xã Đông Thanh nằm ở cửa ngõ phía tây bắc của thành phố Thanh Hóa trên quốc lộ 45, có vị trí địa lý:
Năm | Số dân | ±% năm |
---|---|---|
1999 | 6.542 | — |
2009 | 5.496 | −1.73% |
2019 | 5.663 | +0.30% |
2022 | 7.220 | +8.43% |
Nguồn: 1999,[3] 2009,[4] 2019,[5] 2022.[1] |
Xã Đông Thanh có diện tích tự nhiên 5,80 km², quy mô dân số năm 2022 là 7.220 người,[1] mật độ dân số đạt 1.245 người/km². Dân cư sinh sống tại Đông Thanh chủ yếu là người Kinh.[5]
Xã Đông Thanh xưa được gọi là làng Cổ Bôn hay Kẻ Bôn. Thời Lý gọi là Trang Bôn. Thời Lê - Nguyễn thuộc tổng Thạch Khê, gồm bốn xã (tứ xã Bôn): Phúc Thọ, Ngọc Bôn, Ngọc Đôi, Quỳnh Bôi. Tên gọi Đông Thanh xuất hiện từ năm 1953.[6]
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, nhập 16 xã hữu ngạn sông Chu thuộc huyện Thiệu Hóa với huyện Đông Sơn thành huyện Đông Thiệu, xã Đông Thanh thuộc huyện Đông Thiệu.[7] Đến ngày 30 tháng 8 năm 1982, xã trở lại thuộc huyện Đông Sơn do huyện Đông Thiệu đổi tên thành.[8]
Năm 2018, xã Đông Thanh có 12 thôn, đánh số từ 1 đến 12. Ngày 11 tháng 7 cùng năm, Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa khóa XVII thông qua Nghị quyết về việc sắp xếp thôn, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh.[9] Theo đó:
Sau sắp xếp, xã Đông Thanh có 8 thôn.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Nghị quyết số 1238/NQ-UBTVQH15 (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2025).[10] Theo đó, sáp nhập toàn bộ huyện Đông Sơn vào thành phố Thanh Hóa, xã Đông Thanh thuộc thành phố Thanh Hóa.
Xã Đông Thanh được chia thành 8 thôn: Cần, Kiệm, Kim Bôi, Ngọc Tích, Phúc Triền 1, Phúc Triền 2, Quỳnh Bôi 1, Quỳnh Bôi 2.[11]
Xã Đông Thanh là một vùng quê nổi tiếng về truyền thống văn hóa và sự hiếu học ở xứ Thanh. Dân gian có câu: Đông Sơn tứ Bôn, Hoằng Hóa lưỡng Bột để chỉ các vùng đất học của xứ Thanh, trong đó tứ Bôn chính là vùng đất xã Đông Thanh ngày nay.
Kẻ Bôn hay làng Cổ Bôn hay làng Bôn, là một trong những làng cổ có văn hoá truyền thống đặc sắc, nay thuộc xã Đông Thanh, thành phố Thanh Hóa.
Làng Cổ Bôn được các nhà khảo cổ học khẳng định là một trong những làng cổ ở xứ Thanh. Cổ Bôn nằm trong khu vực trung tâm làng cổ đã được hình thành, phát triển từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách ngày nay hơn hai ngàn năm. Trên một doi đất cách làng mấy trăm mét, tại cánh đồng thuộc xã Đông Tiến, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra một dấu vết của hai khu làng cổ tồn tại từ trước khi có văn hóa Đông Sơn và cả sau khi văn hóa Hán bành trướng ở đây.
Khác với đa số các làng quê ở đồng bằng sông Mã, nơi mà người dân thường nói giọng Thanh Hóa đặc trưng với nhiều từ địa phương và một âm vực khá đơn điệu, người dân làng Bôn mặc dù vẫn sử dụng các phương ngữ Thanh Hóa nhưng giọng nói của họ khá giàu âm điệu, trầm bổng và giống với giọng nói của người làng Rủn (thuộc xã Đông Khê ngày nay).
Cổ Bôn có cảnh trí tự nhiên, môi trường sinh thái không có gì đặc biệt nhưng thuận lợi cho việc phát triển kinh tế tiểu nông và sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Nét đặc sắc của văn hoá cổ truyền Cổ Bôn là kho tàng văn nghệ dân gian. Cổ Bôn là nơi có khối lượng truyện dân gian và ca dao dân ca phong phú, để lại dấu ấn trong kho tàng văn hoá truyền thống xứ Thanh; nhưng đáng chú ý hơn là hệ thống trò diễn dân gian đặc sắc.
Hàng năm, làng tổ chức hội Bôn vào ngày 20 tháng Giêng. Các thôn rước thành hoàng về sinh Bôn để hội làng. Theo tục lệ cỗ cúng ở hội kẻ Bôn rất to, phải có bánh đầu tằm và bánh chưng to bằng cái mẹt, phải luộc bánh bằng vạc, mỗi vạc luộc được hai cái.
Hội Bôn hằng năm có trò Bôn, là một hệ thống năm trò diễn (ngũ trò): trò tiên cuội, trò Hoà Lan, trò Ngô, trò lăng ba khúc, trò thủy (còn gọi là các trò: ngô phường, lam phường, tiền phường, thủy phường và lăng ba khúc).
Trò Bôn do quan viên trong làng quy định, tuỳ theo tình hình năm mở hội. Nếu định chữ Thượng thì làng tổ chức đánh cờ – đám, nếu định chữ Trung thì kéo trò Bôn, nếu chữ Hạ thì chỉ làm cỗ "bò sống, lợn sống" (tạ lễ bằng thịt sống).
Làng thờ 4 vị thành hoàng: Thánh Cả, Thánh Phúc, Thánh Quỳnh, Thánh He, trong đó Thánh Cả hiệu là Đế Thích (vua đánh cờ) biểu tượng của một khúc gỗ thiêng, thánh Quỳnh biểu trưng là "Con cáo luôm thuôm", thánh Phúc là một người mồ côi, thánh Hẹ là Đặng quận công Nguyễn Khải.
Nguyễn Văn Nghi (1515–1584) người làng Cổ Bôn (nay thuộc xã Đông Thanh) là một vị danh nho thời Lê Trung hưng. Đỗ Nhất giáp Chế khoa năm Giáp Dần (1554) đời vua Lê Trung Tông, ông là thầy dạy của hai đời vua Anh Tông và Thế Tông, giữ nhiều chức vụ quan trọng suốt ba đời vua Lê. Sau khi qua đời, Nguyễn Văn Nghi được vua Lê Thế Tông truy tặng chức Thượng thư bộ Công, ban thụy hiệu Phúc Khê tướng công, cấp ruộng đất để nhân dân lập đền thờ.
Đền thờ Nguyễn Văn Nghi tại xã Đông Thanh được xây dựng từ năm 1617 đời vua Lê Kính Tông, sau đó được các đời con cháu của ông tu bổ và mở rộng. Với diện tích khoảng 3,8 ha, khu đền thờ – lăng mộ được bố trí theo kiểu "nội công ngoại quốc", gồm 2 vòng thành: thành ngoài bằng đất, thành trong bằng đá, cùng với bia đá và các hạng mục kiến trúc khác. Kiến trúc tường thành và cổng vòm bằng đá của di tích được đánh giá là độc đáo, mang nhiều nét tương tự với thành Nhà Hồ khiến ngôi đền còn được coi là một "thành Nhà Hồ thu nhỏ".[12][13]
Đền thờ Nguyễn Văn Nghi được công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 1539/VH-QĐ ngày 27 tháng 12 năm 1990 của Bộ Văn hóa – Thông tin.[14]