Khám phá[1][2][3] | |
---|---|
Khám phá bởi |
|
Nơi khám phá | Đài thiên văn Las Campanas (lần quan sát đầu tiên) |
Ngày phát hiện | 21 tháng 5 năm 2010 (lần quan sát đầu tiên) |
Tên định danh | |
2010 KZ39 | |
Đặc trưng quỹ đạo[4][5] | |
Kỷ nguyên 16 tháng 2 năm 2017 (JD 2457800,5) | |
Tham số bất định 5 | |
Cung quan sát | 1,83 năm (669 ngày) |
Điểm viễn nhật | 47,825 AU |
Điểm cận nhật | 42,965 AU |
45,395 AU | |
Độ lệch tâm | 0,0535 |
305,86 năm (111,714 ngày) | |
256,31° | |
0° 0m 11.52s / ngày | |
Độ nghiêng quỹ đạo | 26,032° |
53,118° | |
≈ 6 tháng 3 năm 2110[6] ±5 tháng | |
313,91° | |
Đặc trưng vật lý | |
0,10 (khả thi nhất)[7] | |
20.7[11] | |
2010 KZ39 là một thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương quay quanh Mặt trời như một thiên thể tách rời ở phạm vi bên ngoài của Hệ Mặt Trời. Thiên thể này được quan sát lần đầu tiên vào ngày 21 tháng 5 năm 2010 bởi các nhà thiên văn học Andrzej Udalski, Scott Sheppard, M. Szymanski và Chad Trujillo tại đài thiên văn Las Campañas ở Chile.[1][3]
2010 KZ39 quay quanh mặt trời ở khoảng cách 42,9–47,8 AU một lần với chu kỳ 305 năm và 3 tháng (111,504 ngày), giống như Makemake, Chaos và các thiên thể khác có quỹ đạo cộng hưởng 6:11 với sao Hải Vương. Quỹ đạo của nó có độ lệch tâm 0,05 và độ nghiêng 26 ° so với đường hoàng đạo.
Bằng cách tính toán sử dụng các giá trị phù hợp nhất cho quỹ đạo của nó, dự kiến 2010 KZ39 sẽ đến điểm cận nhật vào năm 2109.[4] Nó đã được quan sát 28 lần trên 3 địa điểm và có tham số không chắc chắn là 5.[1] Tính đến năm 2016, thiên thể này nằm ở khoảng cách 46,1 AU tính từ Mặt Trời.[11] Loại quang phổ trên bề mặt cũng như thời gian quay của nó chưa thể xác định được.
Brown từng giả định suất phản chiếu của 2010 KZ39 là 0,09 và độ lớn là 4,5, dẫn đến đường kính ước tính của vật thể này là 574 km.[10] Tuy nhiên, bởi vì suất phản chiếu của 2010 KZ39 chưa xác định được và hiện có độ lớn ước lượng là 4,03±0,01 [9] nên đường kính của nó có thể dễ dàng rơi vào khoảng từ 414 km đến 933 km đối với suất phản chiếu giả định tương ứng là 0,25 tới 0,05.