Salacia được khám phá ra vào ngày 22 tháng 9 năm 2004, bởi các nhà thiên văn họcngười MỹHenry G. Roe, Michael E. Brown và Kristina M. Barkume tại Đài thiên văn Palomar tại California, Mỹ. Nó đã được quan sát 124 lần, với những hình ảnh trước khi khám phá ra từ tận ngày 25 tháng 7 năm 1982.[2] Salacia có quỹ đạo quanh Mặt Trời ở khoảng cách trung bình lớn hơn của Sao Diêm Vương một chút. Nó được đặt tên theo vị nữ thần La Mã Salacia và có một vệ tinh tự nhiên đã biết duy nhất, Actaea.
Tính đến năm 2019, Tổng trọng lượng của hệ Salacia–Actaea là (4,922±0,071)×1020 kg, trong đó khoảng 96% sẽ là bản thân Salacia, từ đường kính tương đối. Salacia đủ lớn để khó có khả năng có một độ rỗng đáng kể, và có khả năng là bị phân tách. Một lõi đá (với độ đặc 2,77–3,66 g/cm³) có thể chiếm 0,4–0,65 tổng đường kính của Salacia nếu như lớp phủ nước đá không xốp, và 0,45–0,7 tổng đường kính nếu như lớp phủ có độ rỗng 10%.
^ abcd
Fornasier, S.; Lellouch, E.; Müller, P., T.; và đồng nghiệp (2013). “TNOs are Cool: A survey of the trans-Neptunian region. VIII. Combined Herschel PACS and SPIRE observations of 9 bright targets at 70–500 µm”. Astronomy & Astrophysics. 555: A92. arXiv:1305.0449v2. Bibcode:2013A&A...555A..15F. doi:10.1051/0004-6361/201321329.
^ abcdBelskaya, Irina N.; Barucci, Maria A.; Fulchignoni, Marcello; Lazzarin, M. (tháng 4 năm 2015). “Updated taxonomy of trans-neptunian objects and centaurs: Influence of albedo”. Icarus. 250: 482–491. Bibcode:2015Icar..250..482B. doi:10.1016/j.icarus.2014.12.004.
Vệ tinh của vệ tinh GHI CHÚ: Các vệ tinh được in nghiêng không gần với dạng cân bằng thủy tĩnh; các vệ tinh [trong ngoặc vuông] có hoặc không có khả năng gần với dạng cân bằng thủy tĩnh.