Ông nắm quyền tổng tư lệnh phía Nam, chỉ huy toàn khu vực chiến trường Địa Trung Hải, trong đó có chiến trường Bắc Phi. Khi quân Đồng Minh tấn công vào Ý, Kesselring cầm quân kháng cự lâu dài, gây trở ngại rất lớn cho quân địch. Ông cũng tham gia tại mặt trận tây Âu trong giai đoạn cuối của cuộc chiến.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, Kesselring bị đem ra xử tội ác chiến tranh và kết án tử hình nhưng sau đó được giảm án xuống tù chung thân. Trong tù ông được cử làm chủ tịch nhóm Tân Quốc xã [2]. Năm 1952 ông được trả tự do.
Tuy ông không là đảng viên đảng Quốc xã Đức[3], Albert Kesselring không hề phản đối những tội ác của quân Đức do ông chỉ huy gây nên. Ông cũng luôn tỏ rõ lòng trung thành với Hitler [4]
Albert Kesselring là một trong hai thống chế Đức duy nhất có cho xuất bản sách hồi ký về chiến tranh, mang tựa đề "Người Lính Cho Đến Ngày Cuối Cùng"
^Biệt hiệu "Albert hay cười" là do phe Đồng Minh đặt cho ông. Các tác giả Đức không dùng đến nó. Cái tên này được dùng trong chiến tranh; xem “Up the Boot”. Time. ngày 19 tháng 4 năm 1944. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2009.
Fellgiebel, Walther-Peer (2000). Die Träger des Ritterkreuzes des Eisernen Kreuzes 1939–1945 (bằng tiếng Đức). Friedburg, Germany: Podzun-Pallas. ISBN3-7909-0284-5.
Plocher, Herman (1965). Fletcher, Harry (biên tập). The German Air Force versus Russia, 1941(PDF). USAF Historical Studies. US Air Force Historical Research Agency. OCLC313376298. Bản gốc(pdf) lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2007.
Raiber, Richard (2008). Anatomy of Perjury: Field Marshal Albert Kesselring, Via Rasella, and the GINNY mission. Newark: University of Delaware Press. OCLC171287684.
Trong một ngôi nhà đồn rằng có phù thủy sinh sống đang có hai người, đó là Aoko Aozaki đang ở thời kỳ tập sự trở thành một thuật sư và người hướng dẫn cô là một phù thủy trẻ tên Alice Kuonji