Albrecht Dürer

Albrecht Dürer
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
(1471-05-21)21 tháng 5 năm 1471
Nơi sinh
Nürnberg, Đế quốc La Mã Thần thánh
Mất
Ngày mất
6 tháng 4 năm 1528(1528-04-06) (56 tuổi)
Nơi mất
Nürnberg, Đế quốc La Mã Thần thánh
An nghỉJohannisfriedhof
Nơi cư trúVenezia, Nürnberg
Giới tínhnam
Quốc tịchĐức
Dân tộcngười Đức
Tôn giáoGiáo hội Luther
Nghề nghiệphọa sĩ, thợ in bản khắc, nhà toán học, họa sĩ minh họa, nhà điêu khắc bản đồng, nhà lý thuyết nghệ thuật, người phác họa, họa sĩ minh họa, nghệ sĩ làm bìa sách
Gia đình
Bố
Albrecht Dürer cha
Mẹ
Barbara Dürer
Người đỡ đầu
Anton Coberger
Anh chị em
Hans Dürer, Endres Dürer
Hôn nhân
Agnes Dürer
Bảo trợMaximilian I của đế quốc La Mã Thần thánh
Thầy giáoAlbrecht Dürer cha, Michael Wolgemut
Học sinhHans Baldung Grien, Julius Caesar Scaliger
Lĩnh vựchội họa
Sự nghiệp nghệ thuật
Năm hoạt động1484 – 1528
Trào lưuphục hưng Đức
Thể loạichân dung, tranh tôn giáo, ngụ ngôn, tranh lịch sử, tranh thần thoại, tranh đời thường, chân dung tự họa, tranh động vật, tranh phong cảnh
Có tác phẩm trongMuseum Boijmans Van Beuningen, Städel Museum, Minneapolis Institute of Art, Bảo tàng Prado, Art Museum of Estonia, Viện Nghệ thuật Chicago, Bảo tàng Nghệ thuật Nelson-Atkins, Phòng triển lãm Tāmaki Auckland, Thyssen-Bornemisza Museum, Finnish National Gallery, J. Paul Getty Museum, Phòng triển lãm Quốc gia Victoria, Phòng triển lãm quốc gia Washington, Nationalmuseum, National Gallery of Canada, Musée national des beaux-arts du Québec, Stadsarchief Rotterdam, The Frick Collection, Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, Bảo tàng Nghệ thuật Philadelphia, Royal Museum of Fine Arts Antwerp, Museum of Fine Arts Ghent (MSK), Groeningemuseum, Mu.ZEE - Kunstmuseum aan Zee, Bảo tàng Victoria và Albert, Phòng trưng bày Uffizi, The Morgan Library & Museum, Celje Regional Museum, Cooper Hewitt, Smithsonian Design Museum, National Museum of Ancient Art, Schloss Weimar, Hessen Kassel Heritage, Skokloster Castle, Bảo tàng Israel, Gemäldegalerie Alte Meister, Bảo tàng Mỹ thuật Boston, Accademia Carrara, Phòng trưng bày Quốc gia Armenia, Musée Bonnat-Helleu, Bảo tàng Anh, Vanderbilt Museum of Art, Hunterian Museum and Art Gallery, Staatliche Kunsthalle Karlsruhe, Historical Museum Frankfurt, Albertina, Gemäldegalerie, Bavarian State Painting Collections, Kunsthistorisches Museum, Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia Praha, Germanisches Nationalmuseum, Hamburger Kunsthalle, Museum Kunstpalast, Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland, Art Gallery of South Australia, Museum of Fine Arts, Budapest, Condé Museum, Bảo tàng Quốc gia Mỹ thuật phương Tây, Unterlinden Museum, Princeton University Art Museum, Chester Beatty Library, Los Angeles County Museum of Art, Alte Pinakothek, Wallraf–Richartz Museum, Staatliche Kunstsammlungen Dresden, Bảo tàng Ermitazh, Kupferstichkabinett Berlin, Bảo tàng Quốc gia Warsaw, Art Gallery of Ontario, Bảo tàng Quốc gia Luân Đôn, Fondazione Magnani-Rocca, Fogg Museum, Bảo tàng Nghệ thuật Indianapolis, Cincinnati Art Museum, Palazzo Rosso, Bảo tàng Nghệ thuật Harvard, Allen Memorial Art Museum, Honolulu Museum of Art, Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Paris, Staatliche Graphische Sammlung München, Rijksmuseum, Herzog Anton Ulrich Museum, Kunsthalle Bremen, Museum of Fine Arts, Houston, Bảo tàng Nghệ thuật Saint Louis, Westphalian State Museum of Art and Cultural History, Blanton Museum of Art, Phòng triển lãm Ambrosiana, Musée des Beaux-Arts de Dijon, Statens Museum for Kunst, Palais des Beaux-Arts de Lille, Isabella Stewart Gardner Museum, Rijksmuseum Twenthe, Phòng trưng bày Quốc gia Slovakia, Museum Arnhem, Royal Museums of Fine Arts of Belgium, Phòng trưng bày thành phố Bratislava, Thư viện Bang Bayern, Thư viện Quốc gia Pháp, National Library of Brazil, Liemers Museum, Museum Het Valkhof, Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia, Michael C. Carlos Museum, Harry Ransom Center, Dumbarton Oaks, Louvre-Lens, Staatsgalerie Stuttgart, Kupferstich-Kabinett Dresden, University of Michigan Museum of Art, The Ema Klabin House Museum, Kulturgeschichtliches Museum Osnabrück, Fine Arts Museums of San Francisco, Graphic Art Collection of the City of Nuremberg, Clark Art Institute, Art Gallery of New South Wales, Dallas Museum of Art, Veste Coburg Art Collections, Bảo tàng Thiết kế Trường Rhode Island, Yale University Art Gallery, Kunsthalle Kiel, Petit Palais, National Museum of Art, Architecture and Design, Scottish National Gallery of Modern Art, Bảo tàng Brooklyn, Portland Art Museum, Viện nghệ thuật Detroit, Bảo tàng quốc gia Gdańsk, Viện bảo tàng Louvre, STAM Ghent City Museum, Museum of New Zealand Te Papa Tongarewa, Baltimore Museum of Art, Payne Gallery, Museum der bildenden Künste, Cantor Arts Center at Stanford University, Phòng trưng bày nghệ thuật Picker, Walker Art Gallery, Bowes Museum, Brighton Museum & Art Gallery, Spencer Museum of Art, Print Collection, Teylers Museum, Ashmolean Museum, Kunstmuseum Basel, Museum voor Schone Kunsten van Elsene, Museum of Fine Arts of Rennes, Museo Nacional de San Carlos, Graphische Sammlung der ETH, Musée Jeanne-d'Aboville, Musea Brugge, Wellcome Collection

Ảnh hưởng bởi
  • Michael Wolgemut, Jacopo de' Barbari
Website

Albrecht Dürer (/ˈdjʊərər/;[1] tiếng Đức: [ˈʔalbʁɛçt ˈdyːʁɐ];[1][2][3] 21 tháng 5 năm 1471 – 6 tháng 4 năm 1528)[4] là một họa sĩ, một nhà đồ họa và một lý thuyết gia về nghệ thuật nổi tiếng ở châu Âu. Dürer là một nhà nghệ thuật lớn trong thời kỳ của Chủ nghĩa nhân vănPhong trào Cải cách.

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Tuổi thơ cho đến khi tự lập 1497

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngôi nhà của Albrecht Dürer

Cha của Albrecht Dürer, cũng có tên là Albrecht, được gọi là Albercht Dürer der Ältere (Albrecht Dürer Già), đến Nürnberg từ Hungary vào năm 1455[5] và làm nghề thợ kim hoàn tại đây. Năm 1467 ông cưới Barbara Holper, con gái của người thợ cả của ông ở Nürnberg. Trong số 18 người con của cuộc hôn nhân này Albrecht Dürer là người con thứ ba được sinh vào ngày 21 tháng 5 năm 1471.

Ngay từ thời còn trẻ ông đã phải theo cha vào xưởng để học nghề thợ kim hoàn. Bức tự họa bán thân mà ông vẽ trên giấy da (parchment) vào năm 1484 và tranh Đức mẹ Maria với hai thiên thần vào năm 1485 là xuất phát từ thời gian này.

Từ cuối năm 1486 cho đến năm 1490 ông học và làm việc cho họa sĩ Michael Wolgemut tại Nürnberg. Theo nhiều dấu hiệu thì Dürer đã tham gia vào công việc phác thảo quyển "Sử biên niên thế giới Schedel" (phát hành năm 1493). Ngoài ra Dürer cũng đã học hỏi ở các nhà khắc kim loại thời bấy giờ (như Martin Schongauer).

Từ năm 1490 đến năm 1494 Dürer đi chu du qua vùng lưu vực sông Rhein. Hành trình của chuyến đi chu du đầu tiên trong 3 chuyến đi xa của ông không được biết chính xác. Có thể ông đã đến Hà Lan hay trung lưu sông Rhein trước khi ông về đến vùng Elsaß (tiếng Pháp: Alsace) vào năm 1492, ở nơi mà ông không kịp gặp gỡ Martin Schongauer đã qua đời vào ngày 2 tháng 2 năm 1491 tại Colmar. Sau đấy ông đi về Basel (Thụy Sĩ).

Năm 1494 ông cưới Agnes Frey, con gái của một gia đình khá giả ở Nürnberg. Trong thời gian sau đó cho đến 1500 ông đã sáng tác một loạt tranh phong cảnh vẽ màu nước nhỏ với các đề tài ở Nürnberg hay hình ảnh từ những chặn đường trong chuyến đi Venezia (Ý) bắt đầu vào tháng 10 năm 1494. Tháng 5 năm 1495 ông trở về lại Nürnberg.

Từ 1497 đến 1505

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1497 ông bắt đầu tự lập. Trong thời kỳ đầu tiên của cuộc Đời nghệ sĩ ông sáng tác chủ yếu là các bức họa chân dung: chân dung cha của ông (1497), bức chân dung tự họa (1498), chân dung thương gia Oswald Krell từ Lindau (Đức) (1499), chân dung tự họa (1500), chân dung của Friedrich Khôn ngoan (1494/1497).

Thế nhưng thời gian chính ông dành cho công việc khắc kim loại và vẽ đồ họa cho khắc gỗ. Đặc biệt là ông đã thử nghiệm khắc kim loại rất sớm. Bản khắc đầu tiên xác định được niên đại là vào năm 1497. Ngoài ra trong khoảng thời gian này (1498) còn có các tác phẩm: "Khải Huyền của Gioan" (tiếng Anh: Book of Revelation), là một bộ khắc gỗ gồm 16 bản và "Adam và Eva" (1502) là một tác phẩm khắc đồng.

Chuyến đi Venezia

[sửa | sửa mã nguồn]
Lễ Mân Côi, 1506

Năm 1505 ông đến Venezia lần thứ hai, nơi của những nhà họa sĩ thời kỳ Phục hưng nổi tiếng của trường phái Venezia: Tizan, GiorgionePalmavecchio. Nhưng người gây ấn tượng nhiều nhất cho ông là Giovanni Bellini, người mà trong một bức thư ông đã ca tụng là "họa sĩ giỏi nhất".

Các thương gia người Đức ở Venezia đã đặt ông vẽ cho Nhà thờ thánh Barttholomew một bức tranh lớn, "Lễ Mân Côi" (tiếng Anh: Feast of the Most Holy Rosary), bức tranh mà sau này Hoàng đế Rudolf II đã mua lại với một số tiền lớn và dùng 4 người để mang về Praha (Cộng hòa Séc). Mặc dù các tác phẩm được đánh giá cao và Hội đồng thành phố Venezia đã mời ông ở lại thành phố lâu dài với tiền lương hằng năm là 200 đồng Duca, Dürer quyết định trở về lại thành phố quê hương trong mùa thu năm 1506.

Từ 1506 đến 1520

[sửa | sửa mã nguồn]
Adam và Eva, 1507
Thăng thiên và Đăng quang Maria, 1508/1509 Bức tranh giữa là bản sao
Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của các thánh, 1509/1516

Trong số các tác phẩm đầu tiên của Dürer sau khi ông trở về từ Ý phải kể đến "Chân dung một người đàn ông trẻ" (1507) hiện lưu trữ trong Viện bảo tàng Lịch sử nghệ thuật (Kunsthistorische Museum) ở Viên (Áo). Cũng cùng trong năm này ông vẽ bức tranh khỏa thân "Adam và Eva". Trong hai năm 15071508 ông vẽ bức tranh do Tuyển hầu tước Friedrich Khôn ngoan đặt vẽ cho nhà thờ ở Wittenberg (Đức), hiện nay cũng trong Viện bảo tàng Lịch sử nghệ thuật tại Wien.

Sau đó Dürer bắt đầu tác phẩm nổi tiếng "Thăng thiên và Đăng quang Maria" mà nhà quý tộc Jakob Heller ở Frankfurt am Main (Đức) đã đặt ông vẽ cho Nhà thờ dòng Dominican (tiếng La tinh: Ordo Praedicatorum) tại Frankfurt am Main. Tác phẩm này đã mang lại cho nhà thờ một nguồn thu nhập lớn khi các người xem tranh phải chi tiền vào cửa. Sau khi Hoàng đế Rudolf II không mua lại được mặc dầu đã ngỏ ý muốn trả số tiền là 100.000 Gulden, bức tranh này được Công tước Maximilian I của Bayern mua lại với giá 1.000 Thaler vào năm 1613. Trong vụ cháy lớn ở lâu đài München vào năm 1673 bức tranh này đã bị hư hại một phần. Một bản sao của Paul Juvenel hiện đang ở trong lâu đài Saalhof thuộc Viện Bảo tàng Lịch sử tại Frankfurt am Main bên cạnh hai bức tranh cánh vẫn còn giữ được.

Trong khoảng thời gian 1509 đến 1516 (có thể là 1511) ông sáng tác bức họa nổi tiếng trên gỗ "Tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của các thánh", xuất phát là cho nhà nguyện ở Landau (Đức) nhưng sau đó (khoảng 1600) được Hội đồng Nürnberg tặng cho Hoàng đế Rudolf II. Ở phía dưới của bức tranh Dürer đã tự vẽ mình là một nhân vật nhỏ cầm một tấm bảng mang dòng chữ tiếng La tinh. Hiện nay bức tranh này được trưng bày trong Viện bảo tàng Lịch sử nghệ thuật ở Wien.

Cũng trong khoảng thời gian này, ngoài nhiều tác phẩm khắc gỗ và khắc kim loại nhỏ, Dürer đã sáng tác ba loạt tranh khắc gỗ thuộc vào trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông:

  • "Nỗi khổ hình của Giê-xu nhỏ" (15091510), nguyên thủy gồm 37 bản khắc gỗ
  • "Nỗi khổ hình của Giê-xu lớn" (1510) bao gồm 11 bản vẽ về cuộc đời của Chúa cứu thế và một tranh bìa, diễn đạt và khổ của bản khác với loại nhỏ.
  • "Cuộc đời của Maria" (1510 và 1511) bao gồm 20 bản.

Bắt đầu từ thời gian này các tác phẩm của Dürer chủ yếu là khắc gỗ và khắc kim loại, rất ít tranh vẽ. Các bản khắc kim loại nổi tiếng của ông cũng đều là từ khoảng thời gian này: "Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ", "Thánh Jerome" (1514) và "Melencolia I" (1514).

Dürer đã nhiều lần vẽ theo yêu cầu của Hoàng đế Maximilian I. Chậm nhất là từ khoảng thời gian 1510/1511 đã có những mối quan hệ mà có thể là do Willibald Pirckheimer môi giới. Tất cả các tác phẩm này ít nhất cũng là gián tiếp tôn vinh danh dự và vinh quang Hoàng đế.

Đây cũng là thời gian mà ông tiếp xúc với các tác phẩm của Martin Luther, "người đã giúp đỡ tôi rất nhiều".

Chuyến đi Hà Lan (1520-1521)

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 12 tháng 6 năm 1520 Dürer cùng vợ khởi hành qua Bamberg, Frankfurt, Köln đi đến Antwerpen và các thành phố Hà Lan khác, chuyến đi kéo dài cho đến mùa thu năm sau đó.

Ở mọi nơi ông đều được chào mừng nồng nhiệt. Hội đồng thành phố Antwerpen đã không thể mời ông cư ngụ lâu dài tại thành phố này với tiền lương hằng năm là 300 Gulden, tặng ông một căn nhà, sinh sống miễn phí và trả tiền cho tất cả các công việc làm cho chính quyền của ông. Hoàng đế Karl V vừa lên ngôi công nhận các đặc quyền ông được hưởng trước đó (đây thật ra là mục đích chính của chuyến đi này). Rất nhiều tác phẩm chân dung của các giáo sĩ, nhà quý tộc và nhà nghệ thuật là kết quả của chuyến đi Hà Lan. Ngày 2 tháng 7 năm 1521 ông bắt đầu trở về.

Những năm sau đó

[sửa | sửa mã nguồn]

Hai trong số những tác phẩm quan trọng nhất của ông được sáng tác vào năm 1526: Hai sứ đồ GioanPhê-rô và Hai sứ đồ Mác-côPhao-lô. Cũng trong năm này ông vẽ bức tranh sơn dầu chân dung "Hieronymus Holzschuher" được coi là tác phẩm vẽ chân dung đẹp nhất của ông.

Chịu đựng hậu quả của bệnh sốt rét từ chuyến đi Hà Lan, Dürer mất đột ngột vào ngày 6 tháng 4 năm 1528, ngay trước khi ông tròn 57 tuổi. Mộ phần của ông hiện nay nằm trong nghĩa trang Johannis tại Nürnberg, không xa mộ phần của người bạn ông là Willibald Pirchheimer.

Các đóng góp trong lịch sử nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]
Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ, 1513

Dürer đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển khắc gỗkhắc kim loại. Ông đã giải phóng kỹ thuật khắc gỗ ra khỏi "nhiệm vụ minh họa sách" và mang lại cho kỹ thuật này tầm cỡ của một tác phẩm nghệ thuật độc lập có thể đặt bên cạnh tranh vẽ. Dürer tạo được một thang tông màu rộng lớn giữa đen và trắng và vì thế đưa khắc gỗ đến gần khắc kim loại.

Cũng như cho khắc gỗ ông đã cách mạnh hóa và làm hoàn hảo kỹ thuật khắc kim loại. Ông nổi tiếng khắp châu Âu qua các tác phẩm như "Hiệp sĩ, Thần chết và Quỷ dữ" và "Melencolia I". Giống như Tizian, MichelangeloRaffael, Dürer nhận ra được ý nghĩa của kỹ thuật đồ họa là dùng để truyền bá tiếng tăm nghệ thuật và thông qua việc bán các tác phẩm để có thu nhập. Dürer đã phát hành các tác phẩm của mình bằng nhà xuất bản riêng của ông và thông qua các nhà bán sách.

Bên cạnh sáng tác nghệ thuật Dürer cũng viết nhiều tác phẩm về lý thuyết trong nghệ thuật. Ngoài ra ông còn nghiên cứu về cách xây thành lũy. Bức tường thành Ulm (Đức) được xây dựng lại vào đầu thế kỷ 16 là theo bản vẽ của ông.

Các tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Wells, John C. (2008), Longman Pronunciation Dictionary (ấn bản thứ 3), Longman, ISBN 9781405881180
  2. ^ “Albrecht - Deutsch-Übersetzung - Langenscheidt Französisch-Deutsch Wörterbuch” (bằng tiếng Đức và Pháp). Langenscheidt. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
  3. ^ “Duden | Dürer | Rechtschreibung, Bedeutung, Definition”. Duden (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2018.
  4. ^ Müller, Peter O. (1993) Substantiv-Derivation in Den Schriften Albrecht Dürers, Walter de Gruyter. ISBN 3-11-012815-2.
  5. ^ Heaton, Mrs. Charles (1881), The Life of Albrecht Dürer of Nürnberg: With a Translation of His Letters and Journal and an Account of His Works, Seeley, Jackson and Halliday, tr. 29.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sáu việc không nên làm sau khi ăn cơm
Sáu việc không nên làm sau khi ăn cơm
Tin rằng có rất nhiều người sau bữa ăn sẽ ăn thêm hoặc uống thêm thứ gì đó, hơn nữa việc này đã trở thành thói quen
Kết thúc truyện Sơ Thần, là em cố ý quên anh
Kết thúc truyện Sơ Thần, là em cố ý quên anh
Đây là kết thúc trong truyện nhoa mọi người
Đại cương chiến thuật bóng đá: Pressing và các khái niệm liên quan
Đại cương chiến thuật bóng đá: Pressing và các khái niệm liên quan
Cụm từ Pressing đã trở nên quá phổ biến trong thế giới bóng đá, đến mức nó còn lan sang các lĩnh vực khác và trở thành một cụm từ lóng được giới trẻ sử dụng để nói về việc gây áp lực
Nhân vật Nigredo trong Overlord
Nhân vật Nigredo trong Overlord
Nigredo là một Magic Caster và nằm trong những NPC cấp cao đứng đầu danh sách của Nazarick