Bắc Giang
|
|||
---|---|---|---|
Thành phố thuộc tỉnh | |||
Thành phố Bắc Giang | |||
Biểu trưng | |||
Đường phố tại thành phố Bắc Giang | |||
Tên cũ | Phủ Lạng Thương | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đông Bắc Bộ | ||
Tỉnh | Bắc Giang | ||
Trụ sở UBND | Số 1, đường Lê Thánh Tông, phường Tân Tiến | ||
Phân chia hành chính | 21 phường, 10 xã | ||
Thành lập | 7/6/2005[1] | ||
Loại đô thị | Loại II | ||
Năm công nhận | 2024[2] | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 21°16′37″B 106°11′23″Đ / 21,277026°B 106,18978°Đ | |||
| |||
Diện tích | 258,29 km²[3] | ||
Dân số (31/12/2023) | |||
Tổng cộng | 371.151 người[3][4] | ||
Mật độ | 1.436 người/km² | ||
Khác | |||
Biển số xe | 98-B1-B2-B3-B4-AA | ||
Website | tpbacgiang | ||
Bắc Giang là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.
Trong chiến đấu và xây dựng đất nước, thành phố Bắc Giang đã có hàng ngàn lượt tập thể, cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý. Trong đó, thành phố được tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Mỹ", Huân chương lao động hạng Nhì trong thời kỳ đổi mới; 5 phường, xã được phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ"; phong tặng và truy tặng 26 danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Thành phố đã 4 lần vinh dự được đón Bác Hồ về thăm, làm việc với tỉnh và thành phố là các năm: 1955, 1959, 1961, 1963.
Thành phố Bắc Giang là địa danh lịch sử, xưa thuộc Bộ Vũ Ninh. Trấn Kinh Bắc – là trấn thứ tư, trong bốn kinh trấn và đứng đầu phên dậu phía Bắc của quốc gia Đại Việt, có vị trí quân sự trọng yếu gắn liền với chiến thắng Xương Giang vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn muôn thuở còn truyền, tiêu diệt hoàn toàn 10 vạn quân viện binh do Liễu Thăng chỉ huy đã kết thúc 20 năm đô hộ của triều đại phong kiến nhà Minh; bên cạnh đó còn là một trong những trung tâm kinh tế - văn hoá được hình thành và phát triển từ thời kỳ đầu Công Nguyên; từng là phủ lỵ Lạng Giang (thành Châu Xuyên, xã Dĩnh Uyên – Tân Tiến), Bảo Lộc (thành Thọ Xương), huyện lỵ Phượng Nhỡn (xã Dĩnh Uyên – nay là 6 thôn của xã Tân Tiến và thôn Lường của Dĩnh Kế).
Từ một căn cứ quân sự, Phủ Lạng Thương đã trở thành một đô thị với nhiều phố lớn, nhà ga, bến cảng, khách sạn, bưu điện, câu lạc bộ, trường học, công viên, sân vận động,...
Dưới thời Pháp thuộc, ngày 11 tháng 7 năm 1888 đơn vị hành chính Phủ Lạng Thương ra đời.
Ngày 10 tháng 10 năm 1895, tỉnh Bắc Giang được thành lập, Phủ Lạng Thương trở thành tỉnh lỵ tỉnh Bắc Giang.[5]
Ngày 28 tháng 10 năm 1902, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Quyết định về việc địa giới thị xã Phủ Lạng Thương được quy định như sau:
Ngày 13 tháng 3 năm 1923, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Quyết định ba khu đã được dự kiến trong Nghị định ngày 27 tháng 12 năm 1899 được ấn định như sau đối với Phủ Lạng Thương:
Ngày 25 tháng 11 năm 1927, Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định về việc:
Ngày 21 tháng 12 năm 1927, Quyền thống sứ Bắc Kỳ ban đầu Quyết định các làng Thọ Xương và Châu Xuyên thuộc tổng Thọ Xương, phủ Lạng Giang được hợp lại thành làng Thọ Châu.
Ngày 11 tháng 2 năm 1939, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 241 về việc thành lập tỉnh lỵ Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu.
Ngày 24 tháng 2 năm 1942, Tổng sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định số 5247A về việc thành lập thị xã Phủ Lạng Thương trên cơ sở toàn bộ xã Thọ Châu.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Phủ Lạng Thương là một trong những địa phương sớm khởi nghĩa và giành chính quyền (ngày ngày 17 tháng 8 năm 1945).
Ngày 1 tháng 2 năm 1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 451-TTg[6] về việc tái lập thị xã Phủ Lạng Thương trực thuộc tỉnh Bắc Giang.[7]
Ngày 1 tháng 10 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 352-TTg[8] về việc:
Thị xã Bắc Giang có 12 tiểu khu.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Quốc hội ban hành Nghị quyết[11] về việc thành lập tỉnh Hà Bắc trên cơ sở hợp nhất tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh. Khi đó, thị xã Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc và là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Bắc.
Ngày 14 tháng 3 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP[12] về việc sáp nhập xã Thọ Xương thuộc huyện Lạng Giang và các xóm Đa Mai, Thanh Mai của xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên vào thị xã Bắc Giang quản lý.[13]
Ngày 22 tháng 4 năm 1964, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 127-NV[14] về việc thành lập xã Đa Mai trên cơ sở tách một phần đất xã Song Mai thuộc huyện Việt Yên.
Sau năm 1975, thành lập 5 khu hành chính trên cơ sở 12 tiểu khu.[10]
Ngày 1 tháng 6 năm 1981, UBND tỉnh Hà Bắc ban hành Quyết định số 390/QĐ-UBND[15] về việc:
Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT[20] về việc:
Sau khi điều chỉnh địa giới, thị xã Bắc Giang có 5 phường Trần Phú, Lê Lợi, Ngô Quyền, Minh Khai, Nhà Máy Phân Đạm và 4 xã: Đa Mai, Thọ Xương, Song Mai, Dĩnh Kế.
Ngày 24 tháng 5 năm 1989, UBND tỉnh Hà Bắc ban hành Quyết định số 419/UB[22] về việc:
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 103-CP[23] về việc:
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị định[25] về việc chia tỉnh Hà Bắc thành tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh. Khi đó, thị xã Bắc Giang trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Giang.
Ngày 11 tháng 5 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 33/1999/NĐ-CP[26] về việc:
Ngày 15 tháng 12 năm 2003, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1683/QĐ-BXD[27] về việc công nhận thị xã Bắc Giang là đô thị loại III.[28]
Ngày 7 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2005/NĐ-CP[1] về việc thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bắc Giang.
Thành phố Bắc Giang có 3.221 ha diện tích tự nhiên và 126.810 nhân khẩu, có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm 7 phường: Trần Phú, Ngô Quyền, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ, Mỹ Độ, Trần Nguyên Hãn, Thọ Xương và 4 xã: Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai, Song Mai.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36/NQ-CP[29] về việc chuyển xã Dĩnh Trì thuộc huyện Lạng Giang và 4 xã: Song Khê, Tân Mỹ, Tân Tiến, Đồng Sơn thuộc huyện Yên Dũng vào thành phố Bắc Giang quản lý.
Thành phố Bắc Giang có 6.644,82 ha diện tích tự nhiên và 145.249 nhân khẩu; có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 phường: Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn, Mỹ Độ, Trần Phú, Thọ Xương, Ngô Quyền và 9 xã: Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai, Song Mai, Tân Mỹ, Song Khê, Đồng Sơn, Tân Tiến, Dĩnh Trì.
Ngày 31 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 140/NQ-CP[30] về việc:
Thành phố Bắc Giang có 6.677,36 ha diện tích tự nhiên và 157.439 nhân khẩu; có 16 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường: Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn, Mỹ Độ, Trần Phú, Thọ Xương, Ngô Quyền, Dĩnh Kế, Xương Giang, Đa Mai và các 6: Song Mai, Tân Mỹ, Song Khê, Đồng Sơn, Tân Tiến, Dĩnh Trì.
Ngày 3 tháng 12 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2168/QĐ-TTg[31] về việc công nhận thành phố Bắc Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Ngày 31 tháng 7 năm 2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 728/QĐ-TTg[2] về việc công nhận đô thị Bắc Giang đạt tiêu chí đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Giang.
Đô thị Bắc Giang bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính thành phố Bắc Giang hiện hữu và huyện Yên Dũng hiện hữu với phạm vi 258,30 km² với 34 đơn vị hành chính cấp xã. Trong đó, khu vực nội thị dự kiến bao gồm toàn bộ 16 đơn vị hành chính cấp xã của thành phố Bắc Giang gồm 10 phường hiện hữu và 6 khu vực dự kiến thành lập phường gồm các xã: Dĩnh Trì, Tân Mỹ, Đồng Sơn, Tăng Tiến, Song Mai, Song Khê và 8 đơn vị hành chính cấp xã của huyện Yên Dũng gồm thị trấn Nham Biền, thị trấn Tân An dự kiến sáp nhập với xã Lão Hộ và các xã: Nội Hoàng, Tiền Phong, Tân Liễu.
Ngày 28 tháng 9 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1191/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2025).[3] Theo đó:
Sau sáp nhập, thành phố Bắc Giang có diện tích tự nhiên 258,29 km² và quy mô dân số 371.151 người; có 21 phường và 10 xã như hiện nay.
Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 50 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Đặc trưng khí hậu chịu ảnh hưởng của gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4–10, mùa khô từ tháng 11–3. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 23,2 °C – 23,8 °C. Độ ẩm trung bình từ 83–84%. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.400 – 1.730 mm. Nhìn chung, các điều kiện tự nhiên của thành phố Bắc Giang thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
Dữ liệu khí hậu của Bắc Giang | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 30.8 (87.4) |
31.3 (88.3) |
33.6 (92.5) |
36.3 (97.3) |
38.7 (101.7) |
40.5 (104.9) |
37.6 (99.7) |
37.1 (98.8) |
37.0 (98.6) |
34.8 (94.6) |
33.5 (92.3) |
30.0 (86.0) |
40.5 (104.9) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 19.7 (67.5) |
20.0 (68.0) |
22.6 (72.7) |
26.8 (80.2) |
31.1 (88.0) |
32.5 (90.5) |
32.6 (90.7) |
32.0 (89.6) |
31.2 (88.2) |
28.9 (84.0) |
25.6 (78.1) |
22.1 (71.8) |
27.1 (80.8) |
Trung bình ngày °C (°F) | 16.2 (61.2) |
17.1 (62.8) |
19.9 (67.8) |
23.7 (74.7) |
27.1 (80.8) |
28.7 (83.7) |
29.0 (84.2) |
28.4 (83.1) |
27.4 (81.3) |
24.7 (76.5) |
21.1 (70.0) |
17.7 (63.9) |
23.4 (74.1) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 13.6 (56.5) |
15.0 (59.0) |
17.9 (64.2) |
21.5 (70.7) |
24.3 (75.7) |
25.8 (78.4) |
26.2 (79.2) |
25.8 (78.4) |
24.5 (76.1) |
21.5 (70.7) |
17.8 (64.0) |
14.5 (58.1) |
20.7 (69.3) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | 3.4 (38.1) |
4.6 (40.3) |
5.9 (42.6) |
12.2 (54.0) |
16.1 (61.0) |
19.2 (66.6) |
21.8 (71.2) |
21.6 (70.9) |
17.2 (63.0) |
10.3 (50.5) |
6.7 (44.1) |
2.8 (37.0) |
2.8 (37.0) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 24 (0.9) |
27 (1.1) |
49 (1.9) |
111 (4.4) |
193 (7.6) |
256 (10.1) |
253 (10.0) |
286 (11.3) |
176 (6.9) |
121 (4.8) |
38 (1.5) |
18 (0.7) |
1.552 (61.1) |
Số ngày giáng thủy trung bình | 8.3 | 10.6 | 14.9 | 14.0 | 13.8 | 15.4 | 14.9 | 16.6 | 11.9 | 10.1 | 6.5 | 4.3 | 141.3 |
Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 78.3 | 81.6 | 85.3 | 86.1 | 83.1 | 82.3 | 82.4 | 84.5 | 82.3 | 80.2 | 77.4 | 76.5 | 81.7 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 77 | 47 | 49 | 90 | 193 | 179 | 203 | 189 | 202 | 182 | 153 | 133 | 1.695 |
Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology[32] |
Thành phố Bắc Giang có 31 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 21 phường: Cảnh Thụy, Dĩnh Kế, Dĩnh Trì, Đa Mai, Đồng Sơn, Hoàng Văn Thụ, Hương Gián, Mỹ Độ, Ngô Quyền, Nham Biền, Nội Hoàng, Song Khê, Song Mai, Tân An, Tân Liễu, Tân Mỹ, Tân Tiến, Thọ Xương, Tiền Phong, Trần Phú, Xương Giang và 10 xã: Đồng Phúc, Đồng Việt, Đức Giang, Lãng Sơn, Quỳnh Sơn, Tiến Dũng, Trí Yên, Tư Mại, Xuân Phú, Yên Lư.
Thành phố Bắc Giang trước kia và nay được biết đến với vai trò là một trong những trung tâm lớn của vùng về công nghiệp đạm - hoá chất, công nghiệp may mặc, đồng thời là trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc cho miền Bắc, cũng như là nơi tập kết các sản phẩm nội địa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Thành phố có 2 làng nghề truyền thống, một số cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề thành phố như: Quang Châu, Đình Trám, Vân Trung, Song Khê – Nội Hoàng,... đó những thuận lợi cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội và đô thị.
Biểu trưng công nghiệp của thành phố Bắc Giang là công trình Nhà máy Phân đạm Hà Bắc, là nhà máy phân đạm đầu tiên của Việt Nam
Năm 2013, thành phố Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đạt 17,3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Thương mại - dịch vụ chiếm 45,2%; Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng 51,3%; Nông nghiệp - thủy sản 3,5%. Tổng thu ngân sách năm 2013 đạt 695 tỷ đồng, bằng 117% dự toán, bằng 106% so với năm trước. thu nhập bình quân đầu người đạt 59,80 triệu đồng/người. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,55%; số hộ thu nhập 4 triệu đồng/tháng đạt 82%.
Một số cụm công nghiệp đã được hình thành gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước, làm cơ sở để thúc đẩy công nghiệp của thành phố cũng như của tỉnh phát triển nhanh và vững chắc. Trên địa bàn thành phố đã hình thành nhiều ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đa dạng như chế biến nông lâm sản, cơ khí, hoá chất, dệt may, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng,... Hiện trên địa bàn có 2.110 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động trong đó có 1.982 cơ sở sản xuất cá thể, tổ sản xuất; 11 cơ sở kinh tế tập thể; kinh tế hỗn hợp 105 cơ sở và 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phố hiện có 5 làng được công nhận là làng nghề, với các ngành nghề như: sản xuất bún, sản xuất mỳ gạo, làm bánh đa, nghề mộc,...
Thành phố Bắc Giang còn là địa danh nhiều người biết đến như là một trong những trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và ngược lại. Năm 2013 tổng giá trị xuất, nhập khẩu ước đạt 310 triệu USD, tăng 10% so với năm trước (xuất khẩu đạt 186 triệu USD, nhập khẩu đạt 124 triệu USD).
Mạng lưới thương mại - dịch vụ cũng đã được phát triển, đặc biệt tại các tuyến phố chính trong thành phố. Trong thời gian gần đây nhiều dãy phố đã được chuyên môn hoá ngành hàng kinh doanh.
Trên địa bàn thành phố hiện nay đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như: khu đô thị Kosy (phường Xương Giang), khu đô thị phía nam thành phố Bắc Giang, khu đô thị Tây Nam thành phố Bắc Giang,...
Điện: tính đến năm 2003, điện lưới của Việt Nam đã về tới 100% số xã, phường phục vụ cho 100% số hộ dùng điện lưới quốc gia với chất lượng khá.
Nước: chủ yếu lấy từ nhà máy nước của thành phố. Ngoài ra tại một số xã, người dân còn sử dụng nước sinh hoạt và sản xuất từ 6.158 giếng đào và 175 giếng khoan.
Thành phố Bắc Giang có diện tích 66,77 km², dân số năm 2019 là 174.229 người. Trong đó, dân số thành thị là 109.367 người chiếm 62,8% và dân số nông thôn là 64.862 người chiếm 37,2%,[33] mật độ dân số 2.609 người/km².
Thành phố Bắc Giang (hiện hữu) có diện tích 66,56 km²,[10] dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2023 là 194.171 người (trong đó: dân số thường trú là 191.411 người và dân số tạm trú quy đổi là 2.760 người),[4] mật độ dân số 2.917 người/km².
Thành phố Bắc Giang (mở rộng) có diện tích 258,29 km², dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2023 là 371.151 người,[10] mật độ dân số đạt 1.436 người/km².
Tiềm năng du lịch trên địa bàn thành phố bao gồm: 2 điểm du lịch tự nhiên và 42 di tích (14 di tích cấp quốc gia, 4 di tích cấp tỉnh) đều đã và đang được khai thác như: Hạ tầng 2 bờ đê Sông Thương; điểm du lịch Quảng Phúc; các di tích Chùa Kế, nghè Cả (xã Dĩnh Kế); khu lăng tướng công Lều Văn Minh, chùa Vẽ, đình Vẽ, chùa Thành, đình Thành,... và 34 lễ hội truyền thống (1 lễ hội cấp tỉnh) như: lễ hội kỷ niệm chiến thắng Xương Giang; hội chùa Vẽ (phường Thọ Xương), chùa Hồng Phúc (phường Trần Nguyên Hãn), chùa Dền (phường Lê Lợi),... Một số lễ hội và làng nghề truyền thống (bún Đa Mai, bánh đa Kế) được duy trì thường xuyên, có ý nghĩa dân gian và kinh tế đang từng bước hấp dẫn du khách.
Đây là một vùng đất cổ có bề dày về lịch sử văn hoá và truyền thống khoa bảng. Huyện Yên Dũng (nay là thành phố Bắc Giang) là một vùng đất thiêng với huyền thoại 99 con chim phượng hoàng hốt cấu tạo nên dãy Nham Biền; có Chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên) gắn liền với thiền phái Trúc lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập từ thế kỷ XIII, chùa được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Yên Dũng cũng nơi sinh ra hai cha con tiến sĩ Đào Toàn Mân và Trạng nguyên Đào Sư Tích (xã Song Khê).
Các làng nghề xưa, nghề phụ trong huyện Yên Dũng:
Với vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Đông Bắc, ở vị trí trung lộ trên tuyến giao thông huyết mạch (đường bộ, đường sắt liên vận quốc tế) nối Thủ đô Hà Nội với thành phố Lạng Sơn và cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng; ở vào vị trí đầu mối giao thông cấp liên vùng quan trọng: nằm cận kề vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có hệ thống đường bộ gồm các Quốc lộ 1 cũ và mới, 31, 37, tỉnh lộ 398; các tuyến đường sắt: Hà Nội – Lạng Sơn, Hà Nội – Kép – Hạ Long, Hà Nội – Kép – Thái Nguyên chạy qua; có tuyến đường sông nối thành phố với các trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch lớn như Phả Lại, Côn Sơn – Kiếp Bạc, Yên Tử, Hải Phòng; tiếp cận thuận lợi với cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cảng nội địa Gia Lâm, cảng nước sâu Cái Lân, cảng Hải Phòng và các cửa khẩu quốc tế trên biên giới Lạng Sơn.
Giao thông toàn thành phố có 104 km đường bộ, trong đó có 11 km đường quốc lộ, 10 km đường liên tỉnh, 20 km đường nội thị, 63 km đường xã. Ngoài ra còn có gần 80 km đường thôn xóm xe cơ giới đi được và có đường cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn đi qua ở phía nam thành phố. Hàng năm cứng hoá thêm mặt đường bằng bê tông nhựa và bê tông xi măng được 25%. Đường sắt chạy qua 5 km với Ga Bắc Giang. Đường sông chảy qua 4 km tạo thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá.