Brave (bài hát của Sara Bareilles)

"Brave"
Đĩa đơn của Sara Bareilles
từ album The Blessed Unrest
Phát hành23 tháng 4 năm 2013
Thu âm2011
Thể loạiPop
Thời lượng3:39
Hãng đĩaEpic
Sáng tácSara Bareilles, Jack Antonoff
Sản xuấtMark Endert
Thứ tự đĩa đơn của Sara Bareilles
"Stay"
(2012)
"Brave"
(2013)
"I Choose You"
(2014)

"Brave" (tạm dịch: Can đảm) là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Sara Bareilles, trích từ album phòng thu thứ tư của cô mang tên The Blessed Unrest (2013). Bài hát này được chính Bareilles và Jack Antonoff của ban nhạc fun. sáng tác và được lấy cảm hứng từ một người bạn của cô khi đang băn khoăn trong việc công khai thiên hướng tình dục của mình. Bareilles nhờ Mark Endert đảm nhiệm phần sản xuất cho bài hát này nhằm gây được chú ý tại các đài phát thanh. "Brave" sau cùng cũng được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số đầu tiên từ album trên toàn cầu vào ngày 23 tháng 4 năm 20 năm 2013, thông qua hãng Epic Records.

"Brave" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, với những nhận xét cho rằng cô đang dần chuyển đổi thành các danh ca nữ khác như Fiona AppleFlorence Welch, cùng nhiều ý kiến so sánh bài hát với đĩa đơn ăn khách "Roar" của nữ ca sĩ Katy Perry. "Brave" trở thành đĩa đơn đạt đến top 40 thứ ba của Bareilles tại Hoa Kỳ, khi đạt đến vị trí thứ 23, trong khi vươn đến top 3 tại Úc và là đĩa đơn đạt hạng cao nhất của cô tại đó. Nó đồng thời cũng đạt đến vị trí thứ 4 tại New Zealand, thứ 26 tại Hàn Quốc, thứ 58 tại Canada và thứ 88 tại Nhật Bản. Bài hát còn được trình bày lại bởi Lea MicheleNaya Rivera trong tập phim thứ 97 của loạt phim truyền hình Glee, được công chiếu vào ngày 25 tháng 2 năm 2014.[1] Nó còn được xuất hiện trong đoạn quảng cáo cho dòng điện thoại Nokia Lumia 1020.[2]

Video âm nhạc đi kèm do nữ Diễn viên Rashida Jones đạo diễn, với nhiều cảnh Bareilles đang hát xen kẽ với những đoạn video mọi người đang nhảy tại nhiều nơi công cộng như thương xá, phòng tập thể hình, thư viện và trạm xe buýt. Cô cũng trình diễn "Brave" trong nhiều chương trình trực tiếp như The Today ShowThe Voice. Nó còn được đề cử tại Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop xuất sắc nhất trong mùa giải lần thứ 56. Cho dù đạt nhiều thành công tại thị trường quốc tế, thì đến tận tháng 3 năm 2014, tức là gần một năm sau ngày phát hành đầu tiên, "Brave" mới được chọn ra mắt tại Anh Quốc.

Bối cảnh sáng tác và kết cấu bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

"Brave" được sáng tác bởi chính Bareilles và Jack Antonoff từ nhóm nhạc fun. vào năm 2011.[3] Antonoff mô tả ca khúc này "như một bài thánh ca về quyền con người đúng vào thời điểm chưa hề có bất kì bản thánh ca nào như thế."[4] Bareilles cũng từng nhắc đến bài hát này ở nhiều buổi phỏng vấn, khi tiết lộ cảm giác "có rất nhiều danh dự, tính chính trực và nét đẹp khi bạn trở thành đúng con người thật của mình, [và] nó rất quan trọng để trở nên dũng cảm vì chính khi thực hiện nó, bạn cũng tự cho người khác quyền lợi để thực hiện điều đó."[5] Trạm phát thanh The Pulse công bố đĩa đơn này lần đầu vào ngày 17 tháng 4 năm 2013.[6] Sau đó, vào ngày 22 tháng 4, "Brave" được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số đầu tiên trích từ album The Blessed Unrest trên toàn cầu vào ngày 23 tháng 4 năm 2013, thông qua hãng Epic Records.[7]

"Brave" là một bài hát theo thể loại pop với nhịp điệu 92 nhịp một phút.[8] Trong suốt "đoạn điệp khúc uy nghi" mà Jason Lipshutz của Tạp chí Billboard mô tả, Bareilles khuyến khích người nghe nói lên, cất giọng hát, "Say what you wanna say, and let the words fall out, honestly I want to see you be brave."[9][10] Cô tiết lộ việc chắp bút cho bài hát này được lấy cảm hứng từ một người bạn thân của cô, khi người đó đang trăn trở trong việc công khai thiên hướng tình dục của mình.[3] Bareilles yêu cầu Mark Endert đảm nhiệm phần sản xuất cho bài hát này nhằm gây được chú ý tại các đài phát thanh, khi nói rằng "Tôi muốn các bài hát của mình được chơi trên các trạm phát thanh. Nhưng tôi không thực sự muốn điều đó đến nỗi phải bất chấp thực hiện bằng bất cứ điều gì."[11]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

"Brave" nhận được nhiều đánh giá tích cực từ phía các nhà phê bình nghệ thuật, với một bài nhận xét từ Tạp chí Entertainment Weekly cho rằng Bareilles đang dần chuyển hướng sang các nữ danh ca khác như Fiona AppleFlorence Welch.[12] Jenna Hally Rubenstein từ MTV viết rằng "[Brave] đánh dấu một bước ngoặt mới cho Sara. Khi rũ bỏ đi âm điệu nhẹ nhàng trước đây, với nhiều bản ballad chậm hợp thành, mà 'Brave' chính là bài hát theo trào lưu thịnh hành và dễ gây chú ý trên các trạm phát thanh nhất của cô cho đến hiện nay."[13] Julianne Hilmes của Tạp chí Vox cho rằng bài hát mang "màu sắc cổ điển của Sara Bareilles trong đó. Tinh thần của bài hát này là: cất tiếng nói đi!"[14] Jon Caramanica của tờ The New York Times cho một bài đánh giá trái chiều, khi xem nó là một "[bài hát] bùng nổ" và "xác nhận sự ngọt ngào của quý cô Bareilles lẫn chất giọng táo bạo kia đôi khi không có hiệu quả nào hơn nữa."[15]

Tranh cãi xung quanh Katy Perry và Roar

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 10 tháng 8 năm 2013, Katy Perry cho phát hành đĩa đơn "Roar". Không lâu sau đó, có nhiều cáo buộc cho rằng Perry sao chép "Brave."[16][17][18][19] Khi Bareilles được hỏi về vấn đề này, cô trả lời "Katy là một người bạn của tôi và chúng tôi cũng quen biết nhau trong một thời gian dài," và tỏ ra tức giận khi biết về việc là "tâm điểm tiêu cực giữa hai nghệ sĩ mà họ mong muốn truyền đi một thông điệp tích cực." Cô cũng nhắc đến việc biết trước về "Roar" trước khi nó được phát hành và khẳng định "Nếu tôi không giận thì cũng chẳng biết ai ngoài tôi có quyền bực bội về chuyện này."[20]

Để phản bác lại lời buộc tội này, nhà đồng sản xuất và sáng tác nên "Roar", Dr. Luketweet vào ngày 14 tháng 8 năm 2013: "Roar được viết và thu âm trước khi Brave được phát hành."[21] Vào lúc "Brave" nhận được sự chú ý của giới truyền thông do vụ tranh cãi này, hãng Epic Records quyết định quảng bá "Brave" trên các đài phát thanh pop thịnh hành.[22] Perry và Bareilles có trình diễn "Roar" cùng Bonnie McKee, Ellie Goulding, Kacey Musgraves, và cặp đôi Tegan and Sara trên chương trình We Can Survive: Music for Life vào ngày 23 tháng 10 năm 2013.[23]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong tuần lễ cuối ngày 5 tháng 5 năm 2013, "Brave" mở đầu tại vị trí thứ 61 trên Billboard Hot 100 và ở vị trí thứ 20 trên Hot Digital Songs, với 76,000 bản kĩ thuật số đã được tiêu thụ.[24] 9 tuần sau đó, bài hát nhảy từ vị trí thứ 70 lên vị trí thứ 66, với lượng doanh số tăng đến 80%.[25] Đến tháng 12 năm 2013, nó đạt đến vị trí thứ 26, trở thành đĩa đơn đạt đến top 40 thứ ba của cô tại thị trường Hoa Kỳ, theo sau "Love Song" và "King of Anything".[26] Sau cùng, vào tháng 2 năm 2014, bài hát đạt đến vị trí thứ 23 trên Billboard Hot 100, sau khi tăng lượng doanh số và lượt nghe từ lần trình diễn tại giải Grammy. Bài hát đạt mốc 1 triệu bản vào tháng 11 năm 2013,[27] và mốc 2 triệu bản vào tháng 4 năm 2014.[28]

Bài hát còn đạt hạng tại Canada ở vị trí thứ 58[29], thứ 26 tại Hàn Quốc[30], và ở hạng thứ 88 tại Japan Hot 100.[31] Tại Úc, bài hát này đạt được đến vị trí thứ 3 và trở thành đĩa đơn thứ hai của cô tại đó, kể từ khi "Love Song" đạt đến vị trí thứ 4 vào tháng 7 năm 2008. Tại New Zealand, bài hát mở đầu tại vị trí thứ 15 trên New Zealand Singles Chart vào ngày 3 tháng 2 năm 2014, tức hơn 9 tháng kể từ ngày phát hành quốc tế. Sau cùng bài hát đạt đến vị trí thứ 4, được chứng nhận đĩa Vàng bởi ARIA và trở thành đĩa đơn thứ hai của Bareilles đạt được top 10 tại đó.

Video âm nhạc và trình diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 17 tháng 4 năm 2013, một video lời nhạc cho "Brave" được phát hành thông qua tài khoản Vevo của Bareilles.[32] Video âm nhạc chính thức do nữ Diễn viên Rashida Jones từ loạt phim Parks and Recreation của đài NBC đạo diễn.[33] Khi được hỏi cơ duyên hợp tác cùng nhau, Bareilles chia sẻ rằng nó "diễn ra một cách tình cờ, cũng là điều mà tôi cho rằng rất quan trọng với bản thân.... Tôi thích được làm việc cùng Rashida; tôi nghĩ cô ấy đúng là phép màu. Cô ấy rất sáng suốt và sáng tạo và có trí tưởng tượng và thật là một người làm chủ tuyệt vời. Tôi rất muốn được cộng tác với nhiều phụ nữ như thế."[34] Video âm nhạc này được ghi hình tại Los Angeles, và được phát hành vào ngày 14 tháng 5 năm 2013.[35][36] Video bao gồm nhiều cảnh Bareilles đang hát xen kẽ với những đoạn clip mọi người đang nhảy tại nhiều nơi công cộng như thương xá, phòng tập thể hình, thư viện và trạm xe buýt.

Vào ngày 23 tháng 4 năm 2013, Bareilles tham gia phỏng vấn và trình diễn trong phòng thu của đài phát thanh SiriusXM.[37] Vào ngày 25 tháng 4 năm 2013, cô trình diễn bài hát này trên The Today Show.[38] Vào ngày 29 tháng 4, năm 2013, cô tiếp tục trình diễn "Brave" và "Uncharted" trên AXS Live.[39][40] Vào ngày 23 tháng 2 năm 2014, Bareilles trình diễn "Brave" tại Nhà trắng, trước sự hiện diện của Tổng thống Barack Obama và Phu nhân Michelle Obama.

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tải nhạc số[7]
  1. "Brave" – 3:39

Xếp hạng và chứng nhận doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Ngày phát hành Định dạng Nhãn thu âm
Thế giới Toàn thế giới[55] 23 tháng 4 năm 2013 Tải nhạc số Epic Records

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Farley, Christopher John (ngày 25 tháng 2 năm 2014). “Listen to 'Glee' Turn Sara Bareilles's 'Brave' Into a Duet”. The Wall Street Journal. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.
  2. ^ Sciarretto, Amy (ngày 17 tháng 12 năm 2013). “Windows Lumia 1020 Phone 2013 Commercial – What's the Song? Read More: Windows Lumia 1020 Phone 2013 Commercial - What's the Song?”. Popcrush. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.
  3. ^ a b Pannacione, Maggie (ngày 26 tháng 4 năm 2013). “Watch Sara Bareilles Talk About New Single "Brave" in Webisode”. Artistdirect. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2013.
  4. ^ Tierney Sneed (ngày 26 tháng 4 năm 2013). “With Sara Bareilles's 'Brave,' LGBT Themes Become Even More a Pop Norm”. Hoa Kỳ News & World Report. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2013.
  5. ^ Peeples, Jase (ngày 24 tháng 4 năm 2013). “Sara Bareilles Wants to See You Be 'Brave'. Advocate. Here Media Inc. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2013.
  6. ^ SiriusXM (ngày 17 tháng 4 năm 2013). “It's the premiere of "Brave," Pulsating New Music from Sara Bareilles in less than half an hour!”. SiriusXM The Pulse on Facebook. Facebook. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2013.
  7. ^ a b “Brave - Single de Sara Bareilles”. Brazil: iTunes Store. Apple Inc. ngày 22 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  8. ^ “Sara Bareilles - Brave Sheet Music (Digital Download)”. Music Notes. Tiny Bear Music. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  9. ^ Lipshutz, Jason (ngày 16 tháng 7 năm 2013). “Sara Bareilles, 'The Blessed Unrest': Track-By-Track Review”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  10. ^ 'The Blessed Unrest' Review: Sara Bareilles' Latest Is Sweet And Well-Crafted”. The Huffington Post. AOL. ngày 17 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  11. ^ Wass, Mike (ngày 16 tháng 7 năm 2013). “Sara Bareilles' 'The Blessed Unrest': Album Review”. Idolator. Buzz Media. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  12. ^ “Critic Reviews for The Blessed Unrest”. Metacritic. ngày 19 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  13. ^ “Buzzworthy Obsession: Sara Bareilles, 'Brave'. MTV. MTV Networks. ngày 26 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  14. ^ Hilmes, Julianne (ngày 30 tháng 4 năm 2013). “Sara Bareilles' "Brave". Vox. IPC Media. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  15. ^ “Sara Bareilles, George Duke and Ace Hood”. The New York Times. The New York Times Company. ngày 15 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2013.
  16. ^ Kennedy, Gerrick D. (ngày 11 tháng 8 năm 2013). “Listen to Katy Perry's new single 'Roar'. Los Angeles Times. Tribune Company. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2013.
  17. ^ Anderson, Kyle (ngày 12 tháng 8 năm 2013). “Katy Perry's 'Roar' sounds an awful lot like Sara Bareilles' 'Brave,' says the Internet”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2013.
  18. ^ Pavlova, Victoria. “Katy Perry And Sara Bareilles "Brave"-ly "Roar" In The Face Of Plagiarism Speculation”. Contactmusic.com. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2013.
  19. ^ Kennedy, John R. “Katy Perry accused of being copy cat”. Global News. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2013.
  20. ^ “Sara Bareilles on 'Brave' vs. Katy Perry's 'Roar'. ABC News. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  21. ^ “too bad...”. "Twitter". ngày 14 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
  22. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 8 năm 2013). “Weekly Chart Notes: The 27 Songs To Spend At Least 10 Weeks Atop The Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2013.
  23. ^ Aguila, Justino (ngày 24 tháng 10 năm 2013). “Katy Perry Hosts Famous Friends, Previews Next Tour at Hollywood Bowl: Live Review”. Billboard.
  24. ^ Trust, Gary (ngày 10 tháng 5 năm 2013). “Chart Moves: PSY Tumbles On Hot 100; Sara Bareilles Previews New Album; George Jones Back On Hot Country Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  25. ^ Willot, Carl (ngày 22 tháng 8 năm 2013). “Katy Perry's "Roar" Gives Sara Bareilles' "Brave" An 80% Sales Boost”. Idolator. Buzz Media. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  26. ^ Grein, Paul (ngày 28 tháng 8 năm 2013). “Week Ending Aug. 25, 2013. Songs: Robin & Marvin”. Chart Watch. Yahoo! Music. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2013.
  27. ^ Grein, Paul (ngày 27 tháng 11 năm 2013). “Chart Watch: Lorde Wins A Squeaker”. Chart Watch. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  28. ^ a b c d Paul Grein (ngày 30 tháng 4 năm 2014). “Chart Watch: Pharrell Steps Up”. Yahoo Music.
  29. ^ a b "Sara Bareilles Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  30. ^ a b “South Korea Gaon International Chart (Gaon Chart”. Gaon Chart. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013.
  31. ^ a b "Sara Bareilles Chart History (Japan Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013.
  32. ^ “Sara Bareilles "Brave" Lyric Video Premiere on VEVO”. Epic Records. ngày 17 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  33. ^ Biggs, Claire (ngày 15 tháng 5 năm 2013). “Sara Bareilles Takes to the Streets to Urge You to Be 'Brave' in New Music Video”. MTV News. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2014.
  34. ^ Cheesman, Danielle. “Sara Bareilles' 'Brave' new world”. MSN. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  35. ^ “Sara Bareilles + Rashida Jones Dance Bravely”. VH1. MTV Networks. ngày 6 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  36. ^ Lipshutz, Jason (ngày 14 tháng 5 năm 2013). “Sara Bareilles Inspires Random Acts of Dance in 'Brave' Video”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  37. ^ SiriusXM (ngày 23 tháng 4 năm 2013). “Sara Bareilles is back with a new album, and a new single "Brave" and a new tour, and returns to the SiriusXM Pulse studios today to tell Ron Ross all about it!”. SiriusXM The Pulse on Facebook. Facebook. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2013.
  38. ^ “Watch: Sara Bareilles Performs 'Brave' on The Today Show”. Cities97. Clear Channel Media and Entertainment. ngày 26 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.
  39. ^ “Sara Bareilles Performs”. AXS TV. YouTube. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013.
  40. ^ “Sara Bareilles Performs "Uncharted" on AXS Live”. AXS TV. YouTube. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013.
  41. ^ "Australian-charts.com – Sara Bareilles – {{{song}}}" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2014.
  42. ^ "Charts.nz – Sara Bareilles – {{{song}}}" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
  43. ^ "Swisscharts.com – Sara Bareilles – Brave" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart.
  44. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  45. ^ "Sara Bareilles Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  46. ^ "Sara Bareilles Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  47. ^ "Sara Bareilles Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  48. ^ "Sara Bareilles Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  49. ^ “Hot 100 Songs: 2013 Year-End Charts Billboard”. Billboard. Truy cập 7 tháng 10 năm 2015.
  50. ^ “Best of 2012: Adult Pop Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2012.
  51. ^ “Best of 2012: Adult Contemporary Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2012.
  52. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2014 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  53. ^ MỤC id (chart number) CHO CHỨNG NHẬN NEW ZEALAND.
  54. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Sara Bareilles – Brave” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  55. ^ “Sara Bareilles To Release New Album Summer 2013”. Epic Records. ngày 27 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2013.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Liệu Bích Phương có đang loay hoay trong sự nghiệp ca hát
Liệu Bích Phương có đang loay hoay trong sự nghiệp ca hát
Bước vào con đường ca hát từ 2010, dừng chân tại top 7 Vietnam Idol, Bích Phương nổi lên với tên gọi "nữ hoàng nhạc sầu"
Hướng dẫn nguyên liệu ghép công xưởng Hilichurl
Hướng dẫn nguyên liệu ghép công xưởng Hilichurl
Hướng dẫn nguyên liệu ghép công xưởng Hilichurl
[Review] Mirai Radio to Jinkou Bato Trial - Radio Tương Lai Và Chim Bồ Câu Nhân Tạo
[Review] Mirai Radio to Jinkou Bato Trial - Radio Tương Lai Và Chim Bồ Câu Nhân Tạo
Mirai Radio to Jinkou Bato là dự án mới nhất của Laplacian - một công ty Eroge còn khá non trẻ với tuổi đời chỉ mới 3 năm trong ngành công nghiệp
Tại vì sao lyrics nhạc MCK suy nhưng vẫn hay đến như vậy?
Tại vì sao lyrics nhạc MCK suy nhưng vẫn hay đến như vậy?
Nger vốn gắn liền với những bản tình ca, nổi nhất với lũ GenZ đời đầu chúng tôi khi đó là “Tình đắng như ly cafe” ft cùng Nân