Cá hồng dải đen sống gần các rạn san hô, hoặc những vùng đáy phẳng và đôi khi có các cụm san hô thấp, hải miên và san hô mềm, độ sâu trong khoảng 10–72 m.[11]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá hồng dải đen là 40 cm.[11] Lưng và thân trên màu nâu, thân dưới và bụng màu trắng hồng. Hai bên thân có các sọc ngang màu nâu, mỗi sọc nằm trên một hàng vảy cá; các vạch mỏng hơn cùng màu ở phía trên đường bên nhưng nằm xiên về phía gốc vây lưng. Một sọc nâu đen sẫm giữa thân, dày hơn hẳn những sọc kia, kéo dài từ mõm, băng qua mắt đến nửa trên của cuống đuôi. Các vây màu vàng, ngoại trừ vây bụng màu trắng. Cá con và cá chưa trưởng thành có sọc giữa rất đậm màu.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 12–13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 49–52.[12]
Trước đây, Lutjanus ophuysenii chỉ được xem là một đồng nghĩa của cá hồng dải đen L. vitta, nhưng sau đó đã được công nhận là loài hợp lệ. L. ophuysenii có phân bố giới hạn ở Tây Bắc Thái Bình Dương.
Về hình thái, khác biệt rõ ràng nhất là L. vitta không có đốm đen nằm trên sọc giữa thân như L. ophuysenii. Ngoài ra, sọc này trở nên hẹp dần ở L. vitta khi chúng dài khoảng 15 cm (SL: chiều dài tiêu chuẩn) và có thể biến mất khi hơn 20 cm (SL); còn sọc này không thay đổi đáng kể ở L. ophuysenii.[13]
Cá hồng dải đen sinh sản quanh năm, đạt cao điểm vào tháng 4 và tháng 10 ở biển Sulu (Philippines).[17] Ở bờ tây bắc Úc, cá hồng dải đen sinh sản chủ yếu vào từ tháng 9 đến tháng 4, còn ở Nouvelle-Calédonie thì từ tháng 10 đến tháng 2.[18]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Serranus vitta”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2023.
^ abcRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus vitta trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
^William D. Anderson & Gerald R. Allen (2001). “Lutjanidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3. Roma: FAO. tr. 2896. ISBN92-5-104302-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Newman, Stephen J; Cappo, Michael; Williams, David McB (2000). “Age, growth and mortality of the stripey, Lutjanus carponotatus (Richardson) and the brown-stripe snapper, L. vitta (Quoy and Gaimard) from the central Great Barrier Reef, Australia”. Fisheries Research. 48 (3): 263–275. doi:10.1016/S0165-7836(00)00184-3. ISSN0165-7836.
^Palla, Herminie P.; Sotto, Filipina B. (2021). “Reproductive biology of brownstripe snapper Lutjanus vitta (Quoy and Gaimard, 1824) from West Sulu Sea, Philippines”. The Egyptian Journal of Aquatic Research. 47 (1): 67–73. doi:10.1016/j.ejar.2021.01.001. ISSN1687-4285.
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.