Caranx hay còn gọi là chi cá sòng hay chi cá hiếu là một chi cá nhiệt đới trong họ Cá khế. Nhiều loài cá trong chi này là loài có giá trị kinh tế, là nguyên liệu để chế biến các món ẩm thực, bên cạnh đó, nhiều loài cá còn là đối tượng của môn câu cá thể thao, đặc biệt là ở Mỹ. Chúng còn được biết đến với tên gọi Trevally, còn được gọi là jack hoặc kingfish. Có khoảng hơn một tá loài cá thuộc chi này, được phát hiện trong khắp các đại dương của thế giới. Trevally là cá cổ và những mẫu hóa thạch ban đầu của giống này có từ 30 triệu năm trước[1].
Thông thường, các loài Caranx sống ở những vùng nước biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, mặc dù chúng được phát hiện cả ở gần bờ và ở ngoài khơi. Các loài cá này có nhiều ở Ấn Độ dương và Thái bình dương. Theo một số tổ chức đánh cá bền vững, cá khế sinh sản rất nhanh, duy trì tốt số lượng ngay cả trong các vùng đánh cá phát triển. Tuy nhiên, một số chuyên gia cảnh báo việc ăn những loài cá thuộc giống này, vì chúng thường được phát hiện có chứa chất độc ciguatera có hại cho cơ thể con người.
Trevally thay đổi màu sắc từ vàng sáng tới xanh bạc tới gần như đen. Một số loài có tiếng sống lâu, tồn tại hơn 40 năm trong tự nhiên. Chúng có thể điều chỉnh để phù hợp với nhiều điều kiện môi trường khác nhau trong đại dương của chúng; một số thích rạn san hô và gần các cửa sông cạnh bờ biển, trong khi một số loài lớn hơn sống ở khơi. Hầu như tất cả các loài của trevally là cá săn mồi, thường là các loài cá nhỏ hơn và giáp xác. Chúng cũng là mồi của những loài cá lớn hơn như cá mập.
Cá khế chấm vàng, nổ tiếng với màu vàng của nó với những vạch đen hoặc nâu sẫm, khi còn là cá con thường bị bán nhầm để làm cá cảnh. Tuy nhiên, loài sinh vật này rất lớn khi trưởng thành, vượt quá kích cỡ của một bể nuôi cá cảnh ở nhà. Khi trưởng thành, chúng mất những đặc điểm màu sắc nhiệt đới, trở thành màu trắng bạc với những vạch đen. Sống gần bề mặt, cá tự nhiên của loài này sẽ theo sau những kẻ săn mồi lớn hơn, như cá mập, cá mú, hoặc thợ lặn, với hy vọng tìm thức ăn.
^ abThái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.26.
^Nguyễn Quang Linh và ctv., 2014. Khai thác và phát triển nguồn gen cá dìa (Siganus guttatus Bloch, 1787), cá vẫu (Caranx ignobilis Forsskål, 1775), cá căng (Terapon jarbua Forsskål, 1775). Đề tài thuộc chương trình TĐ cấp NN. Đại học Huế.
^ abcStinton, F.C. (1980). “Fish otoliths from the English Eocene. Part. 4”. Palaeontographical Society Monographs (London). 133 (558): 191–258. ISSN0376-2734.
^ abBannikov, A.F. (1990). “Fossil carangids and apolectids of the USSR”. Trudy Paleontologicheskogo Instituta. 244: 1–108. ISSN0376-1444.
^ abcRueckert-Uelkuemen, Neriman (1995). “Carangidae, Priacanthidae, Scorpaenidae, and Sparidae (Pisces) from the Sarmatian layers of Pinarhisar (Thrace, Turkey)”. Mitteilungen der Bayerischen Staatssammlung fuer Palaeontologie und Historische Geologie. 35: 65–86. ISSN0077-2070.