Chế độ quân chủ Trung Quốc

Lãnh thổ ước đoán do các chế độ quân chủ Trung Quốc cai trị trong suốt chiều dài lịch sử

Trung Quốc là một nước quân chủ từ thời tiền sử cho đến tận năm 1912, khi cuộc Cách mạng Tân Hợi lật đổ nhà Thanh, thay thế triều đại này bằng nhà nước Trung Hoa Dân Quốc. Sự kế vị của các vị quân chủ thần thoại Trung Quốc không mang tính thế tập. Triều đại cai trị đầu tiên là nhà Hạ được thành lập bởi Hạ Vũ và con trai ông là Hạ Khải vào khoảng năm 2070 TCN. Kể từ đó, các triều đại cai trị nối tiếp nhau tồn tại cho đến năm 1912, khi triều đại cuối cùng tiêu tùng cùng chế độ quân chủ.[1]

Chế độ quân chủ Trung Quốc mang dáng dấp của hình thức quân chủ chuyên chế, mặc dù quyền lực thực tế của nhà cai trị phụ thuộc và khả năng củng cố sự cai trị của chính họ và nhiều yếu tố khác nữa.[a] Suốt những thời kỳ chính trị thiếu thống nhất, Trung Quốc nằm dưới sự cai trị của nhiều triều đại cạnh tranh – cai quản những vùng đất khác nhau trên khắp đất nước và đều tuyên bố độc quyền văn hóa Trung Hoa chính thống. Trong những trường hợp như vậy, nhiều hơn một chế độ quân chủ Trung Quốc cùng tồn tại đồng thời. Trong lịch sử Trung Quốc, các chế độ quân chủ sở hữu những vị quân chủ gốc Hán hoặc không phải gốc Hán.[4]

Phạm vi của chế độ quân chủ Trung Quốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Chế độ quân chủ Trung Quốc ban đầu được thiết lập dọc theo sông Hoàng Hà và sông Dương TửTrung Quốc bản thổ. Nó mở rộng phạm vi khi các triều đại Trung Quốc khác nhau bành trướng lãnh thổ.[5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17]

Ở nhiều thời điểm khác nhau, chế độ quân chủ Trung Quốc kiểm soát Trung Quốc (bao gồm Hải Nam, Ma CaoHồng Kông),[5][6][7] Đài Loan,[8] Mãn Châu (cả Nội Mãn lẫn Ngoại Mãn),[9][10] Sakhalin,[11][12] Mông Cổ (cả Nội Mông lẫn Ngoại Mông),[10][13] Việt Nam,[14][18] Tây Tạng,[9][10] Tân Cương,[15] các vùng đất thuộc Trung Á,[10][11] Bán đảo Triều Tiên,[16] Afghanistan[17][19]Siberia.[10]

Chế độ quân chủ Trung Quốc đạt đến phạm vi kiểm soát lãnh thổ cực đại dưới thời nhà Nguyên hoặc có thể là nhà Thanh, tùy theo nguồn tư liệu lịch sử.[20][21][22][23][24] Sự thiếu minh bạch này chủ yếu là do đường biên giới phía bắc không rõ ràng của nhà Nguyên: một số nguồn mô tả nó nằm ngay phía bắc bờ bắc hồ Baikal, số khác lại cho là nó phải kéo dài tới tận bờ biển Bắc Băng Dương.[25][26][27] Trong khi đó, biên giới nhà Thanh đã được phân định và củng cố thông qua một loạt hiệp ước quốc tế, và do đó được xác định một cách rõ ràng hơn hẳn. Ở những năm tháng thịnh vượng nhất, tổng diện tích lãnh thổ mà nhà Thanh kiểm soát lên tới hơn 13 triệu km².[28][29][30]

Ngoài việc thực hiện quyền kiểm soát trực tiếp đối với phần lãnh thổ Trung Quốc, chế độ quân chủ Trung Quốc còn duy trì quyền bá chủ thông qua một hệ thống triều cống.[31] Hệ thống triều cống Trung Quốc tồn tại từ thời Tây Hán cho tới tận thế kỷ 19, khi Chủ nghĩa Trung Quốc trung tâm sụp đổ.[32][33]

Sự sụp đổ của chế độ quân chủ Trung Quốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 10 tháng 10 năm 1911, Khởi nghĩa Vũ Xương bùng nổ ở thành phố Vũ Hán ngày nay, đánh dấu điểm khởi đầu của cuộc Cách mạng Tân Hợi.[34] Dưới sự lãnh đạo của Đồng Minh Hội, tiền thân của Quốc Dân Đảng, Cách mạng Tân Hợi nhanh chóng lan sang nhiều vùng miền khác trên khắp Trung Quốc. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Trung Sơn tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân QuốcNam Kinh.[35] Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Tuyên Thống Đế thoái vị, đặt dấu chấm hết cho nhà Thanh và chế độ quân chủ Trung Quốc.[34]

Quốc khánh Trung Hoa Dân Quốc được tổ chức ở Đài Loan ngày nay để kỷ niệm cho ngày Khởi nghĩa Vũ Xương.[36] Nó cũng từng được tổ chức chính thức ở Trung Quốc đại lục từ năm 1912 đến năm 1949 trước khi Trung Hoa Dân Quốc phải di dời đến Đài Loan.

Chủ nghĩa quân chủ ở Trung Quốc sau sự sụp đổ của chế độ quân chủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong và sau cuộc Cách mạng Tân Hợi, đã có nhiều nỗ lực phục hồi chế độ quân chủ Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả rốt cuộc đều thất bại.

Trao hoàng quyền cho Diện Thánh công hoặc Diên Ân hầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong cuộc Cách mạng Tân Hợi, đã có nhiều đề xuất ủng hộ việc thay thế nhà Thanh do người Mãn lãnh đạo bằng một triều đại mới của người Hán. Khổng Lệnh Di (孔令貽), hậu duệ đời thứ 76 của Khổng Tử và là người đang nắm giữ tước hiệu Diện Thánh công, được Lương Khải Siêu xác định là người kế thừa ngai vàng tiềm năng.[37] Trong khi đó, giới thân sĩ ở An HuyHà Bắc lại ủng hộ việc phục hưng nhà Minh với hoàng đế là Chu Dục Huân (朱煜勳), một Diên Ân hầu.[38] Cả hai cái tên kể trên đều không thể lên ngôi hoàng đế.

Đế quốc Trung Hoa

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1915, Viên Thế Khải tuyên bố thành lập Đế quốc Trung Hoa.[39] Điều này nhanh chóng châm ngòi cho cuộc Chiến tranh hộ quốc và đế quốc bị xóa sổ chỉ sau ba tháng tồn tại.  

Đinh Tỵ phục tích

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1917, trung thần nhà Thanh Trương Huân đưa Phổ Nghi trở lại ngai vàng.[40] Nỗ lực phục hưng nhà Thanh, được biết tới với cái tên Đinh Tỵ phục tích, chỉ kéo dài đúng 12 ngày.

Mãn Châu Quốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà nước bù nhìn Mãn Châu Quốc được Nhật Bản thành lập ở Đông Bắc Trung Quốc vào năm 1932.[41] Nó sớm trở thành chế độ quân chủ với Phổ Nghi là hoàng đế vào năm 1934. Năm 1945, Mãn Châu Quốc sụp đổ sau khi Liên Xô xâm lược Mãn ChâuNhật Bản đầu hàng vô điều kiện.

Những người mạo nhận ngai vàng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau đây là danh sách những người mạo nhận ngai vàng Trung Quốc bị phế truất, đến từ gia tộc Ái Tân Giác La, gia tộc cai trị nhà ThanhMãn Châu Quốc.[b]

Người mạo nhận Giai đoạn Vai trò
Ái Tân Giác La Phổ Nghi

愛新覺羅·溥儀

1912–1917;

1917–1934;

1945–1967

Hoàng đế nhà Thanh (1908–1912).

Một lần nữa trở thành Hoàng đế nhà Thanh (1917).

Hoàng đế Mãn Châu Quốc (1934–1945).

Ái Tân Giác La Dục Nham

愛新覺羅·毓嵒

1950–1999 Người mạo nhận đối thủ.
Ái Tân Giác La Phổ Kiệt

愛新覺羅·溥傑

1967–1994
Ái Tân Giác La Phổ Nhậm

愛新覺羅·溥任

1994–2015
Kim Dục Chướng

金毓嶂

2015–nay

Sưu tập

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ngày 3 tháng 11 năm 1911, nhà Thanh đã ban hành Thập cửu hiến pháp trọng đại tín điều (憲法重大信條十九條), hạn chế quyền lực của hoàng đế, đánh dấu sự chuyển đổi từ chế độ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến.[2][3] Tuy nhiên, ba tháng sau, nhà Thanh vẫn sụp đổ.
  2. ^ Nhiều thành viên và con cháu gia tộc Ái Tân Giác La đã lấy họ Kim () sau khi nhà Thanh sụp đổ.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ebrey, Patricia; Liu, Kwang-Ching (2010). The Cambridge Illustrated History of China. tr. 10. ISBN 9780521124331. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  2. ^ Gao, Quanxi; Zhang, Wei; Tian, Feilong (2015). The Road to the Rule of Law in Modern China. tr. 135. ISBN 9783662456378. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ To, Michael (2017). China's Quest for a Modern Constitutional Polity: from dynastic empires to modern republics. tr. 54. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  4. ^ Skutsch, Carl (2013). Encyclopedia of the World's Minorities. tr. 287. ISBN 9781135193881. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  5. ^ a b Brødsgaard, Kjeld (2008). Hainan – State, Society, and Business in a Chinese Province. tr. 11. ISBN 9781134045471. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  6. ^ a b Wong, Koon-kwai (2009). Hong Kong, Macau and the Pearl River Delta: A Geographical Survey. tr. 241–242. ISBN 9789882004757. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  7. ^ a b Zhang, Wei Bin (2006). Hong Kong: The Pearl Made of British Mastery and Chinese Docile-diligence. tr. 3. ISBN 9781594546006. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  8. ^ a b Hughes, Christopher (2013). Taiwan and Chinese Nationalism: National Identity and Status in International Society. tr. 21. ISBN 9781134727551. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  9. ^ a b c Hsu, Cho-yun (2012). China: A New Cultural History. tr. 421. ISBN 9780231528184. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  10. ^ a b c d e f Lockard, Craig (2020). Societies, Networks, and Transitions: A Global History. tr. 260. ISBN 9780357365472. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  11. ^ a b c Gan, Chunsong (2019). A Concise Reader of Chinese Culture. tr. 24. ISBN 9789811388675. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  12. ^ a b Westad, Odd (2012). Restless Empire: China and the World Since 1750. Basic Books. tr. 11. qing dynasty sakhalin.
  13. ^ a b Sanders, Alan (2003). Historical Dictionary of Mongolia. tr. v. ISBN 9780810866010. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  14. ^ a b Paige, Jeffrey (1978). Agrarian Revolution. tr. 278. ISBN 9780029235508. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  15. ^ a b Clarke, Michael (2011). Xinjiang and China's Rise in Central Asia - A History. tr. 16. ISBN 9781136827068. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  16. ^ a b Kshetry, Gopal (2008). Foreigners in Japan: A Historical Perspective. tr. 25. ISBN 9781469102443. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  17. ^ a b Tanner, Harold (2009). China: A History. tr. 167. ISBN 9780872209152. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  18. ^ Lockard (2020). p. 262.
  19. ^ Hsu (2012). p. 268.
  20. ^ Bauch, Martin; Schenk, Gerrit (2019). The Crisis of the 14th Century: Teleconnections between Environmental and Societal Change?. tr. 153. ISBN 9783110660784. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  21. ^ Ruan, Jiening; Zhang, Jie; Leung, Cynthia (2015). Chinese Language Education in the United States. tr. 9. ISBN 9783319213088. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  22. ^ Wei, Chao-hsin (1988). The General Themes of the Ocean Culture World. tr. 17. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  23. ^ Adler, Philip; Pouwels, Randall (2011). World Civilizations: Volume I: To 1700. tr. 373. ISBN 9781133171065. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  24. ^ Rowe, William (2010). China's Last Empire: The Great Qing. tr. 1. ISBN 9780674054554. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  25. ^ History of the World Map by Map. 2018. tr. 133. ISBN 9780241379189. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  26. ^ Tan, Qixiang biên tập (1982). “元时期全图(一)”. The Historical Atlas of China. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  27. ^ Tan, Qixiang biên tập (1982). “元时期全图(二)”. The Historical Atlas of China. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  28. ^ Wang, Fei-ling (2017). The China Order: Centralia, World Empire, and the Nature of Chinese Power. tr. 68. ISBN 9781438467504. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  29. ^ Gao, James (2009). Historical Dictionary of Modern China (1800–1949). tr. xxxvi. ISBN 9780810863088. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  30. ^ Yang, Yi (2018). 一本書讀懂亞洲史. tr. 145. ISBN 9789863921165. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2021.
  31. ^ Kavalski, Emilian (2014). Asian Thought on China's Changing International Relations. tr. 56–57. ISBN 9781137299338. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  32. ^ Rand, Christopher (2017). Military Thought in Early China. tr. 142. ISBN 9781438465180. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  33. ^ Brown, Kerry (2018). China's 19th Party Congress: Start Of A New Era. tr. 197. ISBN 9781786345936. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  34. ^ a b Rošker, Jana; Suhadolnik, Nataša (2014). Modernisation of Chinese Culture: Continuity and Change. tr. 1. ISBN 9781443867726. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  35. ^ Elleman, Bruce (2005). Modern Chinese Warfare, 1795–1989. tr. 149. ISBN 9781134610082. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  36. ^ Copper, John (2010). The A to Z of Taiwan (Republic of China). tr. 109. ISBN 9780810876446. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  37. ^ Rošker, Jana; Suhadolnik, Nataša (2014). Modernisation of Chinese Culture: Continuity and Change. tr. 74. ISBN 9781443867726.
  38. ^ Aldrich, M. A. (2008). The Search for a Vanishing Beijing: A Guide to China's Capital Through the Ages. tr. 176. ISBN 9789622097773. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  39. ^ Schillinger, Nicholas (2016). The Body and Military Masculinity in Late Qing and Early Republican China: The Art of Governing Soldiers. tr. 176. ISBN 9781498531696. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  40. ^ Hao, Shiyuan (2019). China's Solution to Its Ethno-national Issues. tr. 51. ISBN 9789813295193. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  41. ^ Wells, Anne (2009). The A to Z of World War II: The War Against Japan. tr. 167. ISBN 9780810870260. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
LK-99 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 5, mảnh ghép quan trọng của thế kỉ 21
LK-99 và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 5, mảnh ghép quan trọng của thế kỉ 21
Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng tôi đã thành công tổng hợp được vật liệu siêu dẫn vận hành ở nhiệt độ phòng và áp suất khí quyển với cấu trúc LK-99
Cách phân biệt Content Creator, Copywriter và Content Writer
Cách phân biệt Content Creator, Copywriter và Content Writer
Trong bài viết này, mình sẽ chia sẻ cho mấy ní cách phân biệt Content Creator, Copywriter và Content Writer nè
"I LOVE YOU 3000" Câu thoại hot nhất AVENGERS: ENDGAME có nguồn gốc từ đâu?
“I love you 3000” dịch nôm na theo nghĩa đen là “Tôi yêu bạn 3000 ”
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Nguồn gốc Mặt Nạ Kháng Ma trong Tensura
Ngay từ khi bắt đầu Tensura, hẳn chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh Shizu và chiếc mặt nạ, thứ mà sau này được cô để lại cho Rimuru