Tân
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
9–23 | |||||||||||
bản đồ nhà Tân vùng gạch chéo là địa bàn hoạt động của quân khởi nghĩa Xích Mi quân và quân khởi nghĩa Lục Lâm sau này | |||||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||||
Thủ đô | Trường An (長安) | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | tiếng Hán cổ | ||||||||||
Tôn giáo chính | Nho giáo, Đạo giáo, Tôn giáo dân gian | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||||
Hoàng đế | |||||||||||
• 9;–23 | Vương Mãng | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
• Vương Mãng phế Nhũ Tử Anh, lên ngôi hoàng đế | 9 | ||||||||||
• Vương Mãng bị quân khởi nghĩa giết, Nhà Hán được tái lập | 23 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Tiền xu | ||||||||||
|
Một phần của loạt bài về |
Lịch sử Trung Quốc |
---|
|
|
Nhà Tân (chữ Hán: 新朝; bính âm: Xīn Cháo; Hán Việt: Tân triều) (9-23) là một triều đại tiếp sau nhà Tây Hán và trước nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Vị hoàng đế duy nhất của nhà Tân là Vương Mãng.
Từ khi hoàng hậu Vương Chính Quân, vợ vua Hán Nguyên Đế đắc sủng, ngoại thích họ Vương bắt đầu tham gia triều chính: các anh em Vương hoàng hậu là Vương Phượng, Vương Căn, Vương Thương, Vương Lập, Vương Âm được phong làm đại thần trong triều. Một người em khác của Vương hậu là Vương Mạn mất sớm, con là Vương Mãng khi lớn cũng được đưa vào triều làm quan.
Nhờ chăm chỉ học hành và tỏ ra khiêm tốn, liêm khiết, hết lòng vì việc công, gạt bỏ những chuyện riêng tư, Vương Mãng được sự tín nhiệm của mọi người[1]. Ông lần lượt thăng tiến vào các chức vụ quan trọng trong triều, kế tục các chức: Năm 16 TCN làm Kỵ đô uý, năm 8 TCN thăng lên Đại Tư mã[2]. Khi Hán Thành Đế qua đời không có con nối, một người trong tông thất, cháu trai của bà Vương Chính Quân là Hán Ai Đế lên ngôi (7 TCN), lực lượng ngoại thích mới vào triều nắm quyền. Vương Mãng thất thế trong cuộc đấu tranh quyền lực và phải rút lui khỏi chính trường một thời gian.
Ông bắt đầu lấy lại quyền lực sau cái chết của Hán Ai Đế vào năm 1 TCN. Hán Ai Đế hoang dâm và mất sớm, Vương Mãng nhanh chóng trở lại chính trường với sự hậu thuẫn của cô Vương Chính Quân vẫn còn ảnh hưởng trong triều đình. Ông lần lượt loại bỏ các phe cánh ngoại thích mới của họ Phó, họ Đinh và họ Vệ, một mình nắm quyền. Ông dựng các vị vua thiếu niên lên ngôi để dễ khống chế.
Sau nhiều năm thăng tiến, khuynh loát quyền hành trong triều, Vương Mãng cuối cùng ông đã đầu độc Hán Bình Đế (năm 5) và phế Hán Nhũ Tử (Lưu Anh), lên ngôi hoàng đế vào năm 8 (năm 9 theo dương lịch).
Vương Mãng mang hoài bão phục cổ, tái tạo nền văn minh cổ xưa, xây dựng một thế giới lý tưởng[3]. Ông đã thực hiện hàng loạt cải cách ảnh hưởng toàn diện đến xã hội Trung Quốc khi đó. Mặc dù có những ý tưởng lớn lao nhưng cuộc cải cách của Vương Mãng không thực tế khiến nó không thể đi đến thành công. Các cải cách của ông nhằm đạt đến mục tiêu hoàn mỹ và ông không ngần ngại động chạm đến tất cả mọi người[4].
Năm 9, Vương Mãng ban hành cải cách. Các chính sách chủ đạo của Vương Mãng là[5][6]:
Vương Mãng ra lệnh thay đổi tên gọi các địa phương theo ý thích, bất kể thói quen nhiều đời và điều kiện vật chất ở các nơi đó. Không chỉ như vậy, ông còn ra lệnh điều chỉnh khu vực hành chính và chức năng quyền hạn của các đơn vị hành chính.
Mặc dù mỗi lần thay đổi là tạo ra nhiều rắc rối, nhưng Vương Mãng vẫn tiếp tục thay đổi nhiều lần. Có quận trong vòng 1 năm đổi tên tới 5 lần, cuối cùng lại dùng tên cũ ban đầu[12].
Sự phức tạp của tên gọi hành chính khiến tất thảy quan lại và dân chúng đều chán ghét.
Vương Mãng tiến hành các cuộc chiến tranh gây chiến với các nước phía tây, gây oán với Câu Ninh vương ở Tây nam, tiến đánh đất Ba Thục, tại những nơi có khí hậu khắc nghiệt quân sĩ 10 phần bị bệnh dịch chết đến 6 phần.
Vương Mãng uy hiếp người Khương phải hiến vùng đất xung quanh hồ Thanh Hải để lập quận Tây Hải qua đó sẽ kết hợp các quận Bắc Hải, Nam Hải, Đông Hải, Tây hải thành Tứ hải. Để lập quận Tây Hải, Vương Mãng cưỡng chế di dân, đặt ra 50 điều luật để có nhiều người phạm tội cho đủ số và bắt đày đi Tây hải, gây bao oán ghét trong dân[12].
Năm 10, Vương Mãng buộc Hung Nô phải đổi tên gọi thành "Cung Nô", "Hàng Nô"; đổi Thiền Vu thành "Thiện Vu", "Phục Vu"; lại chia Hung Nô thành 15 bộ, phái người mang của cải châu báu đến Tái hạ chiêu tập con cháu của Hô hàn Gia để đưa lên làm Thiền vu các bộ. Từ đó Hung Nô liên tục xâm phạm biên giới giết người cướp của. Thái thú, đô úy hai quận Nhạn Môn, Sóc phương bị giết; riêng gia súc và tài sản bị cướp đi vô số. Vương Mãng bèn phái 12 tướng quân, 30 vạn quân chuẩn bị chia thành 10 cánh để tổng tấn công toàn diện Hung Nô. Triều đình đã chuẩn bị quân lương từ Giang Hoài và vùng duyên hải chuyển vận lên biên cương phía bắc làm rung động thiên hạ. Vì cùng muốn xuất quân cùng một lúc nên những đội quân đến trước phải chờ đợi tại biên cương hàng năm trời mà vẫn không tập hợp đủ làm cho cả vùng biên giới bị xơ xác[12].
Cải cách của Vương Mãng không thành công, giai cấp địa chủ vẫn chiếm nhiều ruộng đất, thêm vào đó thiên tai như hạn hán, châu chấu cắn lúa xảy ra khắp nơi, nên làm cho nông dân đói khổ, nên nhiều nơi nông dân nổi dậy khởi nghĩa.
Năm 15 ở quận Ngũ Nguyên[13] và Đại quận[14] nổ ra những cuộc phản kháng của nhân dân chống lại việc binh dịch đánh Hung Nô, đông vài ngàn người. Năm 16, tại Lang Nha, Hải Khúc[15] nổ ra cuộc phản kháng do người phụ nữ là Lã Mẫu đứng đầu. Lã Mẫu tự xưng là tướng quân, quân đông vài vạn người. Cùng năm đó ở quận Cối Kê[16] nổ ra cuộc nổi dậy của Qua Điền.
Năm 17, những người dân bị đói kém ở Tân Thị[17] thuộc Kinh châu theo Vương Khuông, Vương Phượng[18] nổi dậy khởi nghĩa chống triều đình. Ít lâu sau, các cánh quân khởi nghĩa khác của Mã Vũ ở Nam Dương, Vương Thường và Thành Đan ở Dĩnh Xuyên đến gia nhập, quân khởi nghĩa lớn mạnh nhanh chóng. Vì cánh quân này lấy núi Lục Lâm làm căn cứ nên được gọi là quân Lục Lâm.
Năm 18, hơn 100 người nghèo khổ ở Lang Nha theo Phàn Sùng khởi nghĩa ở đất Cử[19]. Do hai vùng Thanh châu, Từ châu mắc thiên tai, nhân dân đi theo Phàn Sùng rất đông. Để phân biệt với quân nhà Tân, quân khởi nghĩa nhuộm đỏ lông mày, nên gọi là quân Xích Mi. Cánh quân của Phùng An và Dương Âm có vài vạn người về quy phục Phàn Sùng. Một thời gian sau, khi Lã Mẫu chết, tàn quân cũng kéo về theo Phàn Sùng. Quân Xích Mi lập căn cứ ở Thái Sơn, hoạt động ở Thái Am, Lai Vu, Phì Thành, Bình Âm, Đông A thuộc nam bắc sông Hoàng Hà.
Năm 20, phát sinh thêm các cuộc nổi dậy của Phùng Tích Cầu ở Cự Lộc và Tần Phong ở Nam Quận.
Hai cánh quân khởi nghĩa Lục Lâm và Xích Mi trở thành lực lượng chống nhà Tân mạnh nhất.
Vương Mãng phái các tướng cầm quân đi dẹp. Năm 21, quan trấn thủ Kinh châu được lệnh mang 2 vạn quân trấn dẹp quân Lục Lâm, bị quân Lục Lâm dưới quyền chỉ huy của Vương Khuông đánh tan ở Vân Đỗ[20]. Cùng năm, Vương Mãng lại phái thái sư Cảnh Thượng đi đánh quân Xích Mi, cũng bị quân Xích Mi tiêu diệt, Cảnh Thượng bị tử trận. Vương Mãng nghe tin bèn sai thái sư mới là Vương Khuông cùng Liêm Đan chỉ huy quân Cánh Thủy mang hơn chục vạn quân đi dẹp Xích Mi, bị quân chủ lực của Phàn Sùng ở Thành Xương[21] đánh cho đại bại. Liêm Đan tử trận, Vương Khuông chạy trốn. Quân Xích Mi sau trận đó phát triển lên hơn 10 vạn người[22].
Sang năm 22, quân Lục Lâm được sự gia nhập của quân Bình Lâm của Trần Mục và một tông thất nhà Hán là Lưu Huyền; sau đó cánh quân Thung Lăng của anh em tông thất thuộc chi khác nhà Hán là Lưu Diễn và Lưu Tú cũng đến gia nhập. Lực lượng quân Tân Thị mạnh lên nhiều.
Năm 23, quân Lục Lâm tôn Lưu Huyền lên làm hoàng đế với danh nghĩa khôi phục nhà Hán để đánh nhà Tân, tức là vua Canh Thủy Đế.
Tháng 6 năm 23, quân Lục Lâm đánh chiếm Uyển Thành[23] và Côn Dương[24]. Vương Mãng phái đại tư không Vương Ấp và đại tư đồ Vương Tầm thống lĩnh hơn 43 vạn quân đến đánh Côn Dương. Lực lượng quân Lục lâm ở đây chỉ có 8000 quân cố thủ. Trong tình thế nguy cấp Lưu Tú dẫn 13 người phá vây xông ra ngoài thành và nhanh chóng dẫn mấy ngàn quân cứu viện trở lại giải vây. Thừa lúc quân của Vương Ấp khinh địch lơi lỏng, Lưu Tú thống lĩnh 3000 quân bất ngờ tấn công đại phá quân địch. Quân trong thành cũng xông ra ngoài 2 mặt giáp công tiêu diệt quân chủ lực của Vương Ấp, giết chết Vương Tầm. Đây là trận Côn Dương, trận đánh bước ngoặt trong cuộc chiến chống nhà Tân[25].
Nhân lúc quân Tân thua tan tác, các thổ hào các vùng nổi dậy cát cứ: Quỳ Ngao ở Thiên Thủy, Công Tôn Thuật ở Thành Đô, Đậu Dung ở Tây Hà, Lý Hiến ở Lư Giang, Trương Bộ ở Lang Nha, Đổng Hiến ở Đông Hải… Chính quyền nhà Tân lúc đó rất suy yếu, thực tế chỉ còn Trường An và Lạc Dương. Nhân đà thắng lợi, quân Lục Lâm chia làm hai đường tiến đánh nhà Tân: Một cánh đánh về phía tây, vào cửa Vũ Quan để tiến vào Trường An; cánh quân kia tiến đánh Lạc Dương.
Tháng 7 năm 23, thành Lạc Dương bị quân Lục Lâm hạ, thái sư nhà Tân là Vương Khuông và Ai Chương bị bắt sống mang về Uyển Thành chém đầu.
Tình hình Trường An nguy ngập. Trong thành, Vệ tướng quân Vương Thiệp, Quốc sư Lưu Hâm và Đại tư mã Đổng Trung mưu bắt Vương Mãng để đầu hàng Lưu Huyền. Nhưng 3 người không quyết đoán hành động, lại muốn chờ tới lúc "sao Thái Bạch mọc"[26] mới khởi sự, nên việc bị bại lộ. Cả ba người đều bị giết.
Tháng 9 năm 23, lúc quân Lục Lâm vượt qua ải Vũ Quan, tiến đánh Tích Thủy, Đan Thủy[27] thì cánh quân mới nổi dậy của Quỳ Ngao cũng chĩa mũi tấn công vào kinh thành nhà Tân. Kinh thành bị ép từ hai phía đông tây.
Vương Mãng vội tha cho các tù nhân trong kinh thành, sai ra đánh địch. Nhưng cánh quân này vừa ra khỏi Vị Kiều lại làm phản, đào phá mộ tổ nhà họ Vương, đốt cháy quan tài và các công trình miếu thờ của triều đình như Minh Đường, Tịch Ung…
Khi quân Lục Lâm tiến vào Trường An thì nhân dân trong thành cũng vùng dậy chống triều đình. Ngày 3 tháng 10, Vương Mãng và các công khanh, đại phu và hoạn quan chạy đến Tiệm Đài, hy vọng vào sự ngăn trở của hồ nước xung quanh để chống lại quân địch. Quân Lục Lâm kéo đến nơi, vây Tiệm Đài nhiều lớp. Hai bên đánh giáp lá cà. Cha con Vương Ấp xung đột rồi đều tử trận. Các công khanh khác trong Tiệm Đài cũng bị giết. Trong lúc lộn xộn ở Tiệm Đài, Vương Mãng bị thương nhân Đỗ Ngô giết chết. Nhà Tân sụp đổ, tồn tại tất cả 16 năm (9 – 23).
Cuộc hỗn chiến giữa các lực lượng chống nhà Tân như quân Lục Lâm, quân Xích Mi và các thế lực cát cứ khác cuối cùng dẫn đến sự thành lập của nhà Đông Hán do một tông thất nhà Hán ly khai từ quân Lục Lâm là Lưu Tú đứng đầu.