Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn ngữ liên quan, được gọi chung là Hán ngữ (giản thể: 汉语; phồn thể: 漢語; bính âm: Hànyǔ, với số người nói chiếm tới 92% dân số. Tiếng Hán có thể được chia thành nhiều ngôn ngữ riêng biệt.[5]
Nhiều điểm khác biệt giúp phân biệt các phương ngữ Hán ngữ với nhau. Bất chấp số lượng phương ngữ, phổ thông thoại hoặc tiếng Quan Thoại là ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc đại lục kể từ thập niên 1930.
Trong khi chính sách của nhà nước Trung Quốc cho phép quyền tự trị về văn hóa và khu vực, mỗi khu vực và nhóm phương ngữ được phép sử dụng ngôn ngữ riêng của họ, họ cũng phải hiểu và nói ngôn ngữ quốc gia, đó là tiếng Quan Thoại hoặc phổ thông thoại, có nghĩa là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến.
Trước thế kỷ 20, hai chính phủ khác nhau của Trung Quốc không quá quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ. Nhưng vào năm 1949, chính phủ ủng hộ mạnh mẽ ý tưởng chỉ có một ngôn ngữ chính thức mặc dù các hành động cụ thể chỉ được thực hiện vào năm 1955. Năm đó tiếng Quan Thoại được chọn làm ngôn ngữ quốc gia và một chỉ thị đã được ban hành để dạy ngôn ngữ này trong tất cả các trường học và nên được sử dụng. trong mọi mặt của cuộc sống, từ quân đội đến báo chí, thương mại, công nghiệp, phát thanh truyền hình cũng như các công việc phiên dịch, biên dịch.
Kể từ năm 1949, khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, đã cho những cải cách nhiều về ngôn ngữ, cải cách bao gồm những thay đổi trong hình thức viết của tiếng Trung Quốc, với việc chính phủ bãi bỏ một số ký tự và ra lệnh đơn giản hóa hàng trăm ký tự, chữ Hán giản thể, trong khi đó Đài Loan và Hồng Kông vẫn sử dụng chữ Hán phồn thể. Họ cho rằng, chữ giản thể của chính phủ Trung Quốc làm mất đi ý nghĩa đích thực của chữ Hán trong truyền thống.
Ngữ hệ Ấn-Âu: 2 dân tộc chính thức (người Nga và Tajik (trên thực tế người Pamiri) Ngoài ra còn có ngữ hệ Ba Tư chịu ảnh hưởng của tiếng Äynu nói bởi những người Äynu ở Tân Cương phía tây nam đang chính thức được coi là người Duy Ngô Nhĩ.
Dưới đây là danh sách các nhóm dân tộc ở Trung Quốc theo phân loại ngôn ngữ. Các dân tộc không có trong danh sách chính thức của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gồm 56 dân tộc được in nghiêng. Các phiên âm Hán Việt tương ứng và các ký tự Trung Quốc (cả giản thể và phồn thể) cũng được cung cấp.
Nhiều dạng ngôn ngữ nói hiện đại của Trung Quốc có hệ thống chữ viết riêng biệt sử dụng các ký tự Trung Quốc chứa các biến thể thông tục. Chúng thường được sử dụng làm ký tự âm thanh để giúp xác định cách phát âm của câu trong ngôn ngữ đó:
^Dwyer, Arienne (2005). The Xinjiang Conflict: Uyghur Identity, Language Policy, and Political Discourse(PDF). Political Studies 15. Washington: East-West Center. tr. 31–32. ISBN978-1-932728-29-3. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2020. Tertiary institutions with instruction in the languages and literatures of the regional minorities (e.g., Xinjiang University) have faculties entitled Hanyu xi ("Languages of China Department") and Hanyu wenxue xi ("Literatures of the Languages of China Department").