Chi Bách thanh (danh pháp khoa học: Lanius) là một chichimdạng sẻ thuộc họ Bách thanh (Laniidae). Phần lớn các loài trong họ này được xếp vào chi này. Tên chi, Lanius , có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là "đồ tể" (butcher), và một số loài chim bách thanh còn được gọi là "chim đồ tể" vì thói quen kiếm ăn của chúng. Tên tiếng Anh thông dụng của họ "shrike" bắt nguồn từ từ tiếng Anh cổscríc , "shriek", đề cập đến tiếng kêu chói tai.[1]
Các loài thuộc chi Lanius là những loài chim có môi trường sống rộng rãi và thường được nhìn thấy đậu thẳng đứng trên một chỗ đậu nổi bật như ngọn cây hoặc cột điện thoại. Chúng săn lùng và bắt con mồi khi đang bay hoặc trên mặt đất. Những loài này chủ yếu bắt côn trùng lớn, nhưng cũng sẽ bắt chim nhỏ, bò sát và động vật có vú. Đối với các loài lớn ở phía bắc như bách thanh xám lớn, phần lớn con mồi sẽ là động vật có xương sống, đặc biệt là vào mùa đông.
Dù là loài ăn thịt, bách thanh không phải là loài chim săn mồi thực sự và thiếu móng vuốt khỏe của chim ăn thịt. Mặc dù chúng sử dụng chân để giữ những con côn trùng nhỏ hơn, với những con mồi lớn hơn được cắm vào một đầu nhọn, chẳng hạn như gai của dây kẽm gai. Do đó, khi đã bảo đảm an toàn, bách thanh sẽ xé toạc con mồi bằng chiếc mỏ nhọn.
Hầu hết các cá thể chim thuộc chi Lanius đều sống đơn độc, trừ lúc sinh sản và có tính lãnh thổ cao. Các loài phương bắc hoặc ôn đới chẳng hạn như bách thanh xám lớn và bách thanh lưng đỏdi trú và trú đông ở vùng phía nam của phạm vi sinh sản.
Giới tính của hầu hết các loài đều có thể phân biệt được, với việc con đực luôn sáng hơn so với con cái.
Loài hóa thạch Lanius miocaenus đã được mô tả từ hóa thạch thế Miocene sớm được tìm thấy tại Langy, Pháp.[2]
Theo phiên bản thứ 10 của Systema Naturae năm 1758, nhà tự nhiên học người Thụy Điển Carl Linnaeus đặt danh pháp cho chi Lanius.[3]Loài điển hình được nhà tự nhiên học người Anh William John Swainson chỉ định là bách thanh xám lớn vào năm 1824.[4][5] Tên chi là một từ tiếng Latinh có nghĩa là "đồ tể".[6]