Cirrhilabrus joanallenae

Cirrhilabrus joanallenae
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Cirrhilabrus
Loài (species)C. joanallenae
Danh pháp hai phần
Cirrhilabrus joanallenae
Allen, 2000

Cirrhilabrus joanallenae là một loài cá biển thuộc chi Cirrhilabrus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2000.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh joanallenae được đặt theo tên của bà Joan Mary Allen, mẹ của tác giả Gerald R. Allen.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. joanallenae chỉ được biết đến chắc chắn tại phía bắc đảo Sumatra (Indonesia); tuy nhiên, phạm vi phân bố của loài này có thể mở rộng đến Sri Lanka, quần đảo Andaman và vùng biển phía tây nam Thái Lan.[1]

Loài này sống gần các rạn san hô trên nền cátđá vụn ở độ sâu khoảng 12–40 m.[1]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. joanallenae là 8,5 cm.[3]

Vây đuôi bo tròn ở cá cái và cá đực. Vây bụng của cá đực rất dài và lớn, có màu đen. Mống mắt màu đỏ tươi. Cá đực có màu nâu đỏ sẫm ở thân trên, thân dưới và bụng màu trắng, đôi khi có đường sọc màu vàng nằm trên đường biên giữa hai vùng thân đỏ và trắng này. Vây đuôi màu xám đen với các vệt sọc màu xanh lam óng ở giữa vây. Vây lưng và vây hậu môn màu đỏ thẫm, viền xanh óng ở rìa với các hàng đốm xanh dọc theo chiều dài của vây.[4] Cá cái màu đỏ, có các sọc ngang màu trắng ở hai bên thân, cũng như các vệt sọc ngắn trên đầu.[3]

Cá đực mùa giao phối có vệt trắng ở ngay bên dưới vùng thân có tia gai nhô cao, phần lưng còn lại sáng màu vàng tươi, vây đuôi ánh màu xanh lam.[4]

Số gai ở vây lưng: 11–12 (2 tia gai lưng đầu tiên vươn dài thành sợi ở con đực); Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[3]

Phân loại học

[sửa | sửa mã nguồn]

C. joanallenae được gộp vào một nhóm phức hợp loài cùng với Cirrhilabrus humanni, Cirrhilabrus morrisoni, Cirrhilabrus naokoaeCirrhilabrus rubriventralis, đặc trưng bởi vây lưng vươn cao, vây đuôi bo tròn và vây bụng hình cánh quạt.[5]

Những cá thể lai tạp giữa C. joanallenaeC. naokoae đã được ghi nhận tại phía bắc đảo Sumatra, nơi hai loài có cùng khu phân bố.[4]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

C. joanallenae được thu thập trong ngành buôn bán cá cảnh.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Rocha, L. & Pollard, D. (2010). Cirrhilabrus joanallenae. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187788A8630293. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187788A8630293.en. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cirrhilabrus joanallenae trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  4. ^ a b c Lemon T. Y. K. (5 tháng 11 năm 2015). “3.3 Fairy Wrasses: The rubriventralis group”. Reef Builders. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
  5. ^ Gerald R. Allen & Mark V. Erdmann (2012). “Cirrhilabrus humanni n. sp”. Trong Gerald R. Allen & Mark V. Erdmann (biên tập). Reef Fishes of the East Indies (PDF). Perth, Úc: Tropical Reef Research. tr. 1138–1141. ISBN 978-0987260000.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan