Dư Quốc Đống | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 1/1975 – 4/1975 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 11/1974 – 1/1975 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Trung tướng Phạm Quốc Thuần |
Kế nhiệm | -Trung tướng Nguyễn Văn Toàn |
Vị trí | Quân khu III |
Nhiệm kỳ | 11/1973 – 11/1974 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh |
Kế nhiệm | -Trung tướng Phạm Quốc Thuần |
Vị trí | Quân khu II |
Nhiệm kỳ | 2/1973 – 11/1973 |
Cấp bậc | -Trung tướng |
Tiền nhiệm | -Trung tướng Ngô Dzu |
Kế nhiệm | -Trung tướng Cao Hảo Hớn |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 12/1964 – 11/1972 |
Cấp bậc | -Chuẩn tướng -Thiếu tướng (6/1968) -Trung tướng (7/1970) |
Tư lệnh phó | -Đại tá Lê Quang Lưỡng (từ tháng 9 đến 11/1972) |
Kế nhiệm | -Đại tá Lê Quang Lưỡng |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 9/1964 – 12/1964 |
Cấp bậc | -Đại tá -Chuẩn tướng (11/1964) |
Tư lệnh phó | -Đại tá Ngô Quang Trưởng (từ tháng 1 đến 6/1966) |
Tiền nhiệm | -Thiếu tướng Cao Văn Viên |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 1/1963 – 9/1964 |
Cấp bậc | -Trung tá -Đại tá (9/1964) |
Tư lệnh | -Đại tá Cao Văn Viên |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 1/1962 – 1/1963 |
Cấp bậc | -Thiếu tá -Trung tá (1/1963) |
Tiền nhiệm | Đầu tiên |
Kế nhiệm | -Thiếu tá Bùi Kim Kha |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Nhiệm kỳ | 11/1960 – 1/1962 |
Cấp bậc | -Đại úy (1/1959) -Thiếu tá (10/1961) |
Tiền nhiệm | -Thiếu tá Trần Văn Đô |
Kế nhiệm | -Đại úy Bùi Kim Kha |
Vị trí | Biệt khu Thủ đô |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa |
Sinh | 21 tháng 12 năm 1932 làng Vĩnh Thanh Vân, Minh Lương, Rạch Giá (nay là Kiên Giang), Liên bang Đông Dương |
Mất | 21 tháng 4 năm 2008 California, Hoa Kỳ | (75 tuổi)
Nguyên nhân mất | Tuổi già |
Nơi ở | California, Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Công Giáo |
Vợ | Long Thị Bảy Dư |
Cha | Dư Sòng |
Mẹ | Trần Thị Hiển |
Họ hàng | Trần Như Long (ông ngoại) Dư Quốc Lương (anh) -Các em: Dư Thị Mỹ Lan Dư Thị Kim Huê Dư Thị Kim Liên Dư Thị Mỹ Tú Dư Quốc Tài Dư Thị Mỹ Dung |
Con cái | Dư Trần Quốc Sinh |
Học vấn | Tú tài bán phần |
Alma mater | -Trường Tiểu học Tư thục Võ Thành Trứ, Rạch Giá -Trường Tư thục Guillerault Chasseloup Laubat, Sài Gòn -Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt |
Phục vụ trong lực lượng vũ trang | |
Thuộc | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1951 - 1975 |
Cấp bậc | Trung tướng |
Đơn vị | Binh chủng Nhảy dù[1] Trường Hạ sĩ quan Quân đoàn III và QK 3 Bộ Tổng Tham mưu |
Chỉ huy | Quân đội Quốc gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Dư Quốc Đống (1932 - 2008) nguyên là một tướng lĩnh Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Quốc gia mở ra ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Tốt nghiệp ông được chọn về đơn vị Nhảy dù. Ông đã có hầu hết thời gian trong quân ngũ chỉ phục vụ cho Binh chủng Nhảy dù. Trong các đời Tư lệnh đơn vị Nhảy dù, ông là Tư lệnh với thời gian lâu nhất (1964-1972). Ông cũng từng đảm trách Tư lệnh một Quân đoàn chủ lực của Việt Nam Cộng hòa.
Ông sinh ngày 21 tháng 12 năm 1932 trong một gia đình điền chủ khá giả tại làng Vĩnh Thanh Vân, Minh Lương, Rạch Giá, miền Tây Nam phần Việt Nam. Thiếu thời, ông học ở trường Tiểu học Tư thục Võ Thành Trứ tại Rạch Giá. Khi lên Trung học, ông được gia đình cho lên Sài Gòn học ở trường Tư thục Guillerault Chasseloup Laubat. Năm 1950, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Đầu tháng 4 năm 1951, sau khi tốt nghiệp Trung học Phổ thông, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/120.247. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn vào đơn vị Nhảy Dù[2]
Đầu tháng 11 năm 1955, sau khi chuyển từ Quân đội Quốc gia sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức Đại đội trưởng của Tiểu đoàn 1 Nhảy dù[3]. Đầu năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy và giữ chức Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 Nhảy dù. Tháng 11 năm 1960, ông được lên giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng thay thế Thiếu tá Trần Văn Đô[4].
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1961, ông được đặc cách ở mặt trận, thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Giữa tháng 11 năm 1961, Lữ đoàn Nhảy dù thành lập Chiến đoàn, ông nhận lệnh bàn giao Tiểu đoàn 1 lại cho Đại úy Bùi Kim Kha để lên giữ chức vụ Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 Nhảy dù tân lập.[5] Đầu năm 1963, ông được thăng cấp Trung tá bàn giao Chiến đoàn 1 lại cho Thiếu tá Bùi Kim Kha để giữ chức vụ Tư lệnh phó Lữ đoàn Nhảy dù dưới quyền Tư lệnh của Đại tá Cao Văn Viên.
Tháng 9 năm 1964, ông được thăng cấp Đại tá, được cử giữ chức vụ Quyền Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù thay thế Thiếu tướng Cao Văn Viên[6]. Ngày 1 tháng 11 cùng năm, nhân kỷ niệm lần thứ nhất ngày đảo chính (1/11/1963) thành công, ông được thăng cấp Chuẩn tướng và trung tuần tháng 12, ông chính thức được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù.[7] Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Ngày 1 tháng 7 năm 1970, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.
Ngày 11 tháng 11 năm 1972, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù lại cho Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (nguyên Tư lệnh phó của Sư đoàn). Ngày 2 tháng 2 năm 1973, ông được cử làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa trong Ủy ban Quân sự 4 bên thay thế Thiếu tướng Ngô Dzu. Đầu tháng 11 năm 1973, chuyển ra Duyên hải miền Trung, ông đảm nhiệm chức vụ vụ Chỉ huy trưởng Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang thay thế Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh, sau khi bàn giao chức vụ Trưởng đoàn Quân sự 4 bên lại cho Trung tướng Cao Hảo Hớn. Ngày 1 tháng 11 năm 1974, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu 3, hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng Phạm Quốc Thuần[8]
Ngày 5 tháng 1, khi đang là Tư lệnh Quân đoàn III, ông đã xin từ chức sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bác bỏ lời yêu cầu của ông gửi quân tăng viện đến mặt trận Phước Long.[9] Sau đó, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn (Nguyên Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết Giáp Trung ương). Đồng thời, ông được chuyển về Bộ Tổng tham mưu làm Phụ tá cho Tổng tham mưu trưởng.
Ngày 29 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó được sang định cư tại Huntington Beach, Orange (Quận Cam) thuộc miền Nam Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Ông đã về hưu sau 13 năm phục vụ cho Hội Bác Ái Công giáo (Catholic Charities) tại Los Angeles trong cương vị là người cố vấn tìm công ăn việc làm cho người di dân.
Ngày 21 tháng 4 năm 2008, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 76 tuổi. Lễ tang được tổ chức ngày 3 Tháng 5 tại nhà thờ First United Methodist Church, Huntington Beach.