Denílson de Oliveira

Denílson
Denílson năm 2021
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Denílson de Oliveira Araújo
Ngày sinh 24 tháng 8, 1977 (47 tuổi)
Nơi sinh Diadema, Brazil
Chiều cao 1,78 m (5 ft 10 in)
Vị trí Tiền đạo cánh trái (đã giải nghệ)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
São Paulo
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1994–1998 São Paulo 50 (4)
1998–2005 Real Betis 186 (13)
2000–2001Flamengo (cho mượn) 11 (3)
2005–2006 Bordeaux 31 (3)
2006–2007 Al Nassr 15 (3)
2007 FC Dallas 8 (1)
2008 Palmeiras 30 (3)
2009 Itumbiara 0 (0)
2009 Hải Phòng 1 (1)
2010 AO Kavala 0 (0)
Tổng cộng 514 (60)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1996–2003 Brasil 68 (10)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Brasil
Bóng đá nam
U-20 World Cup
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Qatar 1995 Đội bóng
World Cup
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Nhật Bản & Hàn Quốc 2002 Đội bóng
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Pháp 1998 Đội bóng
Confed Cup
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Ả Rập Xê Út 1997 Đội bóng
Cúp Vàng CONCACAF
Huy chương đồng – vị trí thứ ba Hoa Kỳ 1998 Đội bóng
Copa América
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất Bolivia 1997 Đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Denílson de Oliveira Araújo (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1977 tại Diadema) thường được gọi là Denílson, là một cựu cầu thủ bóng đá người Brasil từng thi đấu cho nhiều câu lạc bộ như Real Betis, Bordeaux, Hải PhòngĐội tuyển Brasil ở vị trí Tiền đạo cánh trái.

Denílson bắt đầu sự nghiệp của mình tại São Paulo FC trước khi trở thành cầu thủ đắt giá nhất thế giới vào năm 1998 sau khi chuyển tới Real Betis từ São Paulo FC với giá 21,5 triệu bảng Anh.[1] Sau khi bị Betis bán vào năm 2005, anh đã thi đấu cho nhiều câu lạc bộ trên thế giới.

Denílson đã có 68 lần khoác áo đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil và ghi được 10 bàn thắng từ năm 1996 tới 2003.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Các câu lạc bộ trong sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Trưởng thành từ đội trẻ của câu lạc bộ São Paulo anh chơi ở đây bốn năm từ 1994 tới 1998. Sau màn trình diễn tuyệt vời tại Copa América 1997, anh trở thành cầu thủ đắt giá nhất thế giới khi chuyển tới đầu quân cho câu lạc bộ Real Betis của Tây Ban Nha với giá 21,5 triệu bảng Anh.

Tuy nhiên sau khi Real Betis xuống hạng vào mùa giải 1999/2000 Denilson đã sang chơi cho Flamengo theo một bản hợp đồng cho mượn. Và ngay sau khi trở thành nhà vô địch thế giới năm 2002 cùng với Brasil, anh lập tức bị Betis bán cho câu lạc bộ Bordeaux của Pháp vào năm 2005.

Mặc dù bắt nhịp với câu lạc bộ mới quá chậm, nhưng vì mức lương của anh quá cao mà không câu lạc bộ nào dám hỏi mua. Mãi tới khi bản hợp đồng kết thúc vào năm 2006, Denilson trở thành cầu thủ tự do. Anh liên hệ với các câu lạc bộ như Tottenham Hotspur, Vestel ManisasporCeltic, nhưng cuối cùng anh chuyển tới thi đấu tại Ả Rập Xê Út dưới màu áo câu lạc bộ Al-Nasr. Mười lăm lần xuất hiện trên sân và chỉ ghi nổi ba bàn thắng, anh dời khỏi câu lạc bộ và tới giải MLS đầu quân cho FC Dallas.

Denilson ghi bàn thắng đầu tiên của mình tại giải MLS từ chấm phạt đền phút thứ 36, bàn thắng ấn định tỉ số 2-0 giúp FC Dallas đánh bại TFC. Tuy nhiên chỉ ghi được một bàn trong 8 trận, sau khi bản hợp đồng với câu lạc bộ của Mĩ kết thúc, anh lại ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ Palmeiras với hi vọng huấn luyện viên Vanderlei Luxemburgo có thể giúp anh lấy lại phong độ năm xưa.

6 tháng 1 năm 2009 anh tới thử việc tại Bolton Wanderers với hi vọng sẽ ký được hợp đồng thi đấu tới hết mùa, nhưng huấn luyện viên của Bolton, ông Gary Megson đã từ chối anh.

Sau khi bản hợp đồng 1 năm với Palmeiras kết thúc, cựu tuyển thủ Brasil tiếp tục ký hợp đồng ba tháng với câu lạc bộ Itumbiara. Tuy nhiên, cuối tháng 5 năm 2009, Denilson đã quyết định chuyển tới chơi bóng cho câu lạc bộ Xi măng Hải Phòng của Việt Nam. Ngày 2 tháng 6 năm 2009, anh có buổi ra mắt câu lạc bộ tại sân vận động Lạch Tray tuy nhiên đã không ra sân trong 2 trận đấu vì chấn thương chưa khỏi[2]. Tuy nhiên, sau trận thi đấu chính thức đầu tiên tại V-League và ghi được 1 bàn ngay từ phút thứ 2 trong trận đấu Xi măng Hải Phòng gặp Hoàng Anh Gia Lai ngày 21 tháng 6[3], Denílson đã chủ động đề nghị thanh lý hợp đồng với lý do không thể thích nghi với V-League và đã được câu lạc bộ chấp nhận và công bố chính thức cho báo giới vào ngày 23 tháng 6 năm 2009[4].

Tháng 1 năm 2010, Denilson ký hợp đồng 2 năm với câu lạc bộ của Hy Lạp AO Kavala. Tuy vậy chỉ 3 tháng sau đó, anh đã bị Kavala thanh lý hợp đồng dù chưa thi đấu trận nào cho clb.[5]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Trận đấu ra mắt đội tuyển quốc gia Brasil tháng 11 năm 1996 trong trận đấu với Cameroon. Tới năm 2003, anh đã 68 lần khoác áo đội tuyển vàng xanh, ghi 10 bàn thắng. Sau khi giành ngôi á quân tại World Cup 1998, tới World Cup 2002 tổ chức tại Hàn QuốcNhật Bản, anh đã 5 lần được vào sân từ băng ghế dự bị và trở thành nhà vô địch thế giới vào năm đó.

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

São Paulo

Betis

Palmeiras

Brazil

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. AFP. 6 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2011. Chú thích có tham số trống không rõ: |7= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |tên bài=|title= (trợ giúp)
  2. ^ Khoa Nguyễn (8 tháng 6 năm 2009). “Denilson sẽ thi đấu từ cuối tháng này”. VnExpress. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  3. ^ Khoa Nguyễn (21 tháng 6 năm 2009). “Denilson ghi bàn, Hải Phòng thắng đậm HAGL”. VnExpress. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  4. ^ Khoa Nguyễn (23 tháng 6 năm 2009). “Denilson bất ngờ chia tay Hải Phòng”. VnExpress. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày= (trợ giúp)
  5. ^ “Denilson cut by Kavala”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2011.
  6. ^ "Copa Conmebol 1994: San Pablo Campeón" on Historias Coperas blogsite, 25 Oct 2016
  7. ^ “Championship of Sao Paulo 1998”. rsssfbrasil.com. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2019.
  8. ^ “La 'Grama' firma un histórico pase a cuartos de final-Fútbol”.
  9. ^ “Artilheiros da história” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Folha Online. 11 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2008.
  10. ^ "Brazil crowned world champions". BBC Sport. Retrieved 18 February 2014.
  11. ^ Lacey, David (13 tháng 7 năm 1998). “Zidane's double leads the rout as hosts put paid to below-par Brazil”. The Guardian. tr. 23. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021 – qua Newspapers.com.
  12. ^ “Brazil 6 Australia 0”. Football Database. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
  13. ^ “Bolivia - Brazil 1:3 (Copa America 1997 Bolivia, Final)”. WorldFootball.net. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2020.
  14. ^ “CONCACAF Championship, Gold Cup 1998”. RSSSF.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Josef Martínez - Hiện thân của một Atlanta United trẻ trung và nhiệt huyết
Josef Martínez - Hiện thân của một Atlanta United trẻ trung và nhiệt huyết
Tốc độ, sức mạnh, sự chính xác và một ít sự tinh quái là tất cả những thứ mà ta thường thấy ở một tay ném bóng chày giỏi
Thủ lĩnh Ubuyashiki Kagaya trong Kimetsu no Yaiba
Thủ lĩnh Ubuyashiki Kagaya trong Kimetsu no Yaiba
Kagaya Ubuyashiki (産屋敷 耀哉 Ubuyashiki Kagaya) Là thủ lĩnh của Sát Quỷ Đội thường được các Trụ Cột gọi bằng tên "Oyakata-sama"
Ngoại trừ sự sống và cái chết, mọi thứ đều là phù du
Ngoại trừ sự sống và cái chết, mọi thứ đều là phù du
Bạn có biết điều bất trắc là gì không ? điều bất trắc là một cuộc chia tay đã quá muộn để nói lời tạm biệt
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 229: Quyết chiến tại tử địa Shunjuku - Jujutsu Kaisen
Vì Sukuna đã bành trướng lãnh địa ngay lập tức, Angel suy luận rằng ngay cả Sukuna cũng có thể tái tạo thuật thức bằng phản chuyển