Lamela với Tottenham Hotspur vào năm 2020. | ||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Erik Manuel Lamela[1] | |||||||||||||||||||
Ngày sinh | 4 tháng 3, 1992 [2] | |||||||||||||||||||
Nơi sinh | Buenos Aires, Argentina | |||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,83 m[3] | |||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo cánh, tiền vệ tấn công[4] | |||||||||||||||||||
Thông tin đội | ||||||||||||||||||||
Đội hiện nay | Sevilla | |||||||||||||||||||
Số áo | 17 | |||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||
2000–2009[5] | River Plate | |||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||
2009–2011 | River Plate | 36 | (4) | |||||||||||||||||
2011–2013 | Roma | 62 | (19) | |||||||||||||||||
2013–2021 | Tottenham Hotspur | 171 | (17) | |||||||||||||||||
2021– | Sevilla | 30 | (8) | |||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||
2011–2012 | U-20 Argentina | 4 | (3) | |||||||||||||||||
2011– | Argentina | 25 | (3) | |||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 22 tháng 10 năm 2022 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 21 tháng 11 năm 2018 (UTC) |
Erik Manuel Lamela (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [ˈeɾik laˈmela]; sinh ngày 4 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cánh phải hoặc tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Sevilla ở giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha và đội tuyển quốc gia Argentina.[6]
Lamela đến với bóng đá tại câu lạc bộ River Plate vào ngày 14 tháng 6 năm 2009 ở trận đấu với Tigre,vào sân ở phút thứ 80.Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 5 tháng 12 năm 2010, trong trận đấu với Colón. Lamela thường xuyên được đứng trong đội hình chính thức trong mùa giải 2010-11
Ngày 6 tháng 8 năm 2011,Lamela gia nhập câu lạc bộ của Ý A.S. Roma với mức phí 12 triệu €, bản hợp đồng có thời hạn 5 năm.Ngoài ra, chế độ về lương bổng của anh cũng sẽ được tăng tiến dần theo thời gian.[7] Ngày 23 tháng 10,anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình tại Serie A vào lưới Palermo
Anh bắt đầu mùa giải 2012-2013 một cách rất ấn tượng,bàn thắng đầu tiên của mùa giải được ghi vào lưới Bologna.Lamela có một phong độ tuyệt vời trong tháng mười và tháng mười một,ghi được bảy bàn thắng trong 6 trận đấu,trong đó có cú đúp vào lưới Udinese. Anh kết thúc mùa giải với 15 bàn thắng trong 33 trận đấu,đứng vị trí thứ 5 trong danh sách vua phá lưới Serie A và thứ 2 trong danh sách những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Roma(Sau Osvaldo với 16 bàn).
Ngày 29 tháng 8 năm 2013,anh chuyển tới câu lạc bộ Tottenham với mức phí chuyển nhượng 30 triệu €,[8] biến anh thành cầu thủ đắt giá nhất lịch sử câu lạc bộ,vượt qua cả Roberto Soldado và Paulinho. Anh có trận đấu đầu tiên vào ngày 1 tháng 9, trong trận derby thành Luân Đôn với Arsenal tại sân Emirates, vào sân từ ghế dự bị thay cho Andros Townsend vào phút thứ 75 của trận đấu.
Érik Lamela đã chuyển sang câu lạc bộ Sevilla F.C trong thỏa thuận với hợp đồng Bryan Gil của Tottenham Hotspur với đội bóng Tây Ban Nha.
Lamela được gọi vào đội U20 Argentina để tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới.
Anh có trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển quốc gia Argentina vào ngày 25 tháng 5 năm 2011 trong trận đấu giao hữu với Paraguay.
Sevilla
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Châu lục | Khác | Tổng | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
River Plate | 2008–09 | 1 | 0 | — | — | — | 1 | 0 | |||
2009–10 | 1 | 0 | — | — | — | 1 | 0 | ||||
2010–11 | 34 | 4 | — | — | — | 34 | 4 | ||||
Tổng | 36 | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 36 | 4 | |
Roma | 2011–12 | 29 | 4 | 2 | 2 | — | — | 31 | 6 | ||
2012–13 | 33 | 15 | 3 | 0 | — | — | 36 | 15 | |||
Tổng | 62 | 19 | 5 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 67 | 21 | |
Tottenham Hotspur | 2013–14 | 9 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 | 1 | 17 | 1 |
2014–15 | 33 | 2 | 1 | 0 | 4 | 1 | 8 | 2 | 46 | 5 | |
2015–16 | 34 | 5 | 0 | 0 | 0 | 0 | 8 | 6 | 44 | 11 | |
2016–17 | 9 | 1 | 0 | 0 | 2 | 1 | 1 | 0 | 12 | 2 | |
2017–18 | 25 | 2 | 6 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 33 | 4 | |
2018–19 | 19 | 4 | 1 | 0 | 4 | 1 | 9 | 1 | 33 | 6 | |
2019–20 | 5 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 5 | 2 | |
Tổng | 134 | 16 | 10 | 2 | 12 | 3 | 34 | 10 | 190 | 31 | |
Tổng sự nghiệp | 232 | 39 | 15 | 4 | 12 | 3 | 34 | 10 | 293 | 56 |
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
U20 Argentina | 2011 | 4 | 3 |
Tổng | 4 | 3 | |
Argentina | 2011 | 1 | 0 |
2013 | 5 | 0 | |
2014 | 4 | 1 | |
2015 | 5 | 0 | |
2016 | 10 | 2 | |
Tổng | 25 | 3 |
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 3 tháng 9 năm 2014 | Esprit Arena, Düsseldorf, Đức | Đức | Giao hữu | ||
2. | 14 tháng 6 năm 2016 | CenturyLink Field, Seattle, Hoa Kỳ | Bolivia | Copa América Centenario | ||
3. | 18 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động Gillette, Foxborough, Hoa Kỳ | Venezuela | Copa América Centenario |