Giang mai | |
---|---|
Xoắn khuẩn giang mai | |
Chuyên khoa | bệnh truyền nhiễm, khoa da liễu |
ICD-10 | A50-A53 |
ICD-9-CM | 090-097 |
MedlinePlus | 001327 |
eMedicine | med/2224 emerg/563 derm/413 |
Patient UK | Giang mai |
MeSH | D013587 |
Giang mai (syphilis) là một bệnh lây truyền qua đường tình dục hoặc qua tiếp xúc. Nó do xoắn khuẩn Treponema pallidum (xoắn khuẩn giang mai) gây ra. Đường lây truyền của bệnh giang mai phần lớn là qua đường tình dục, mặc dù có những ca bệnh giang mai lây qua tiếp xúc hoặc sử dụng chung đồ dùng với người bệnh, hoặc do bẩm sinh (lây truyền từ mẹ sang con trong tử cung hoặc khi sinh).
Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh giang mai rất nhiều, do đó trước khi phương pháp xét nghiệm huyết thanh học ra đời thì việc chẩn đoán chính xác bệnh giang mai rất khó khăn bởi vì nó thường bị nhầm lẫn với các bệnh khác, đặc biệt là trong giai đoạn 3.[1]
Giang mai trước kia là bệnh không chữa được nên người ta rất khiếp sợ nó, nhưng ngày nay có thể điều trị được bằng thuốc kháng sinh như penicillin. Nếu không chữa trị, bệnh giang mai có thể gây biến chứng cho tim, động mạch chủ, não, mắt, và xương, trong một số trường hợp có thể gây tử vong.
Bệnh giang mai phát triển theo bốn giai đoạn chính: giai đoạn 1, giai đoạn 2, giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn 3.[2]
Đây là giai đoạn rất quan trọng để phát hiện và điều trị kịp thời. Khoảng 3-90 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (trung bình 21 ngày), sẽ xuất hiện tổn thương da ở các điểm tiếp xúc. Vết loét xuất hiện ở những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai, thường là ở bộ phận sinh dục như: môi lớn, môi bé, âm đạo, cổ tử cung, quy đầu, dương vật hoặc trực tràng.[2] Tổn thương này, được gọi là săng giang mai, là một dạng viêm loét, có đặc điểm nông, hình tròn hay bầu dục kích thước 0.3 đến 3 cm,[2] bờ nhẵn, màu đỏ, không ngứa, không đau, không có mủ; đáy vết loét thâm nhiễm cứng và kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và cũng không đau.[2] Các triệu chứng trên có thể tự biến đi sau 3 đến 6 tuần lễ kể cả không điều trị nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu, bệnh vẫn tiếp tục phát triển với những biểu hiện khác.
Giai đoạn 2 xảy ra từ 4 đến 10 tuần sau giai đoạn 1.[2] Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như: nốt ban đối xứng, màu hồng như hoa đào (đào ban) không ngứa trên toàn thân hoặc tứ chi bao gồm cả lòng bàn tay, bàn chân [2][3], hình ảnh đào ban màu đỏ hồng hoặc hồng tím như cánh hoa đào, ấn vào thì mất, không nổi cao trên mặt da, không bong vảy và tự mất đi. Thường khu trú hai bên mạng sườn, ngực, bụng, chi trên. Đào ban xuất hiện dần trong vòng 1 đến 2 tuần, tồn tại không thay đổi trong vòng 1 -3 tuần sau đó nhạt màu dần rồi mất đi.
Hoặc bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc[2]. Mảng sẩn, sẩn các loại, có nhiều kích thước khác nhau, như bằng hạt đỗ, đinh gim, hoặc sẩn hình liken, ranh giới rõ ràng màu đỏ như quả dâu, không liên kết với nhau, thường hay bong vảy và có viền da ở xung quanh sẩn, nếu các sẩn có liên kết với nhau sẽ tạo thành các mảng, hay sẩn mảng, các sản ở kẽ da do bị cọ xát nhiều có thể bị trợt ra, chảy nước, trong nước này có chứa rất nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây khi tiếp xúc với những bệnh nhân này. Sẩn mủ ít gặp hơn đào ban và các loại sẩn trên, chủ yếu ở những người nghiện rượu, trông giống như viêm da mủ nông và sâu. Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể (thường là âm hộ hoặc bìu), phát ban trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc.[2] Các triệu chứng khác thường gặp ở giai đoạn này bao gồm sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ.[2][4] Các triệu chứng này thường tự biến mất sau 3-6 tuần.[4]
Giang mai tiềm ẩn được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh.[5] Giai đoạn này chia làm hai loại: thời gian tiềm ẩn dưới 1 năm sau giai đoạn 2 (sớm) và thời gian tiềm ẩn kéo dài hơn 1 năm sau giai đoạn 2 (muộn).[4] Giang mai tiềm ẩn sớm có thể tái phát các triệu chứng bệnh,[4] giang mai tiềm ẩn muộn không có triệu chứng và không lây bằng giang mai tiềm ẩn sớm.[4]
Giang mai giai đoạn 3 có thể xảy ra khoảng 3-15 năm sau những triệu chứng của giai đoạn 1 và được chia thành ba hình thức khác nhau: giang mai thần kinh (6,5%), giang mai tim mạch (10%) và củ giang mai (15%).[2][4] Những người bị bệnh giang mai giai đoạn này không lây bệnh.[2]
Tuy là bệnh nguy hiểm nhưng bệnh giang mai nếu được điều trị bằng những loại thuốc đặc trị thì tỷ lệ khỏi bệnh là khá cao, miễn là phải được phát hiện sớm và điều trị đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.
Lựa chọn đầu tiên cho việc điều trị các bệnh giang mai không biến chứng là một liều duy nhất penicillin G tiêm bắp.[6] Doxycycline và tetracycline cũng là sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên không thể sử dụng ở phụ nữ mang thai.[6] Ceftriaxone có thể có hiệu quả tương tự như điều trị bằng penicillin.[2]
Do penicillin G ít xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương cho nên đối với những bệnh nhân giang mai thần kinh nên được tiêm penicillin liều cao vào tĩnh mạch tối thiểu là 10 ngày.[2][6] Nếu bị dị ứng với penicilline thì có thể được sử dụng cetriaxone thay thế.[2] Điều trị tại thời điểm này sẽ hạn chế sự tiến triển hơn nữa của bệnh, nhưng không thể cải thiện các thiệt hại do bệnh đã gây ra.[2]
Một trong những tác dụng phụ của điều trị là phản ứng Jarisch-Herxheimer.[2] Phản ứng phụ thường bắt đầu trong vòng một giờ sau khi tiêm thuốc và kéo dài trong 24 giờ với các triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu, và nhịp tim nhanh.[2]
Hiện nay vẫn chưa vác xin chủng ngừa có hiệu quả cho công tác phòng chống.[6] Không nên quan hệ tình dục hay tiếp xúc vật lý trực tiếp với một người bị bệnh để tránh lây truyền bệnh giang mai, có thể sử dụng bao cao su đúng cách, tuy nhiên vẫn có thể không hoàn toàn an toàn.[7][8] Giang mai không lây qua nhà vệ sinh, các hoạt động hàng ngày, bồn tắm, hay dụng cụ ăn uống hoặc quần áo.[9]
Tính đến năm 2018, chưa có loại vắc xin nào có hiệu quả phòng chống căn bệnh này.[6] Một số vắc-xin dựa trên protein treponemal đã làm giảm sự phát triển tổn thương ở các thí nghiệm với động vật, nhưng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục.[10][11]
Sử dụng bao cao su làm giảm khả năng lây truyền khi quan hệ tình dục, nhưng nó không thể loại bỏ hoàn toàn nguy cơ lây bệnh.[12] Theo Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh (CDC) tại các tiểu bang Hoa Kỳ, "sử dụng đúng cách và phù hợp bao cao su latex có thể làm giảm nguy cơ lây bệnh giang mai chỉ khi vùng da bị nhiễm bệnh hoặc bộ phận phơi nhiễm tiềm ẩn được bảo vệ".[13] Tuy nhiên, những vùng có giang mai nằm bên ngoài khu vực được bao phủ bởi bao cao su latex vẫn có thể cho phép lây truyền bệnh, vì vậy cần thận trọng ngay cả khi sử dụng bao cao su[14]
Kiêng tiếp xúc tình dục với người bị bệnh có hiệu quả cao trong việc giảm lây truyền bệnh giang mai. CDC tuyên bố rằng "Cách chắc chắn nhất để tránh lây truyền các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả bệnh giang mai, là kiêng quan hệ tình dục hoặc quan hệ chung thủy một vợ một chồng lâu dài với bạn đời đã được xét nghiệm và được biết chắc là không bị nhiễm bệnh".[14]
Bệnh giang mai bẩm sinh ở trẻ sơ sinh có thể được ngăn ngừa bằng cách sàng lọc các bà mẹ trong thời kỳ đầu mang thai và điều trị cho những thai phụ bị nhiễm bệnh[16] Dịch vụ dự phòng Hoa Kỳ (USPSTF) khuyến cáo rằng nên sàng lọc phổ quát cho tất cả phụ nữ có thai,[17] trong khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tất cả phụ nữ nên được xét nghiệm ở lần khám thai đầu tiên của họ và một lần nữa trong ba tháng cuối thai kỳ.[18][19] Nếu họ dương tính, bạn tình của họ cũng nên được điều trị.[18]
Bệnh giang mai bẩm sinh vẫn còn phổ biến ở các nước đang phát triển, do nhiều phụ nữ không được khám thai hoặc không được khám sàng lọc giang mai.[16][20] Nó vẫn thỉnh thoảng xảy ra ở các nước phát triển, nếu những người có nhiều khả năng mắc bệnh giang mai ít được chăm sóc trong thời kỳ mang thai.[16] Một số biện pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận xét nghiệm có vẻ hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh giang mai bẩm sinh ở các nước có thu nhập thấp đến trung bình.[18] Xét nghiệm tại nơi chăm sóc để phát hiện bệnh giang mai có vẻ là đáng tin cậy mặc dù cần có thêm nghiên cứu để đánh giá hiệu quả của nó và cải thiện kết quả ở bà mẹ và trẻ sơ sinh.[21]
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC) Mỹ khuyến cáo rằng những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng tính luyến ái nên được kiểm tra ít nhất hàng năm.[22] USPSTF cũng khuyến nghị sàng lọc những người có nguy cơ cao.[23]
Bệnh giang mai là một bệnh phải khai báo ở nhiều quốc gia, bao gồm Canada,[24] và Liên minh châu Âu,[25] và Mỹ.[26] Điều này có nghĩa là các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe được yêu cầu thông báo danh tính người mắc bệnh cho cơ quan y tế công cộng, sau đó lý tưởng nhất là cơ quan này sẽ thông báo cho các đối tác tình dục của người đó.[27] Bác sĩ cũng có thể khuyến khích bệnh nhân bảo bạn tình đi khám.[28] Một số chiến lược đã được tạo ra để cải thiện việc theo dõi kiểm tra STI, bao gồm email và tin nhắn văn bản nhắc nhở về các cuộc hẹn khám bệnh.[29]
12 triệu người nhiễm giang mai vào năm 1999 với hơn 90% trường hợp ở các nước đang phát triển.[6] Nó ảnh hưởng từ 700.000 và 1.600.000 thai phụ mỗi năm dẫn đến sẩy thai tự nhiên, thai chết lưu, và giang mai bẩm sinh.[31] Trong vùng Sahara ở châu Phi, giang mai góp phần làm tử vong khoảng 20% trẻ sơ sinh.[31]
Trong thế giới phát triển, các ca nhiễm bệnh giang mai đã suy giảm cho đến năm 1980 và 1990 do sử dụng rộng rãi các thuốc kháng sinh. Từ năm 2000, tỷ lệ giang mai đã gia tăng tại Mỹ, Anh, Australia và châu Âu chủ yếu ở nam giới quan hệ tình dục với nam giới[6] (đồng tính luyến ái) do thực hành tình dục không an toàn.[6]
Tại Hoa Kỳ, nhân viên y tế báo cáo khoảng 32.000 người mắc bệnh giang mai trong năm 2002, phần lớn ở tuổi 20–39. Cao nhất ở nữ tuổi 20–24 và nam tuổi 35–39. Năm 2001 có 492 trẻ sơ sinh bị cha mẹ truyền bệnh giang mai, năm 2002 số này tụt xuống một chút – 412.[32]
Nguồn gốc của bệnh giang mai không được xác định chính xác.[2] Có ba lý thuyết đã được đề xuất. Các sử gia và nhà nhân loại học cho rằng giang mai đã xuất hiện ở những người dân bản địa của châu Mỹ trước khi người châu Âu đến vùng đất này. Tuy nhiên, vấn đề các chủng giang mai đã xuất hiện hàng thiên niên kỷ trên toàn thế giới hay là bệnh chỉ có ở châu Mỹ trong thời kỳ tiền Columbus vẫn được đem ra tranh luận.
Lobdell và Owsley viết rằng một nhà văn châu Âu đã ghi nhận một đợt bùng phát "bệnh hủi" trong năm 1303 là một "mô tả rõ ràng bệnh giang mai."[39]...không thể đổ lỗi bệnh giang mai cho bất kì khu vực địa lý hay chủng tộc cụ thể nào. Những bằng chứng cho thấy bệnh này đã tồn tại ở cả hai bán cầu vào thời tiền sử. Nó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên với những cuộc thám hiểm của Columbus rằng bệnh giang mai trước đây bị coi như là 'bệnh hủi' đã bất ngờ bộc lộ độc lực của nó vào cuối thế kỷ 15.[39]
Crosby viết, "Không phải là không thể nào mà các sinh vật xoắn khuẩn đến từ châu Mỹ vào những năm 1490... và phát triển thành cả hai dạng giang mai, hoa liễu và không hoa liễu, và bệnh ghẻ cóc."[43] Tuy nhiên, Crosby xem xét có nhiều khả năng có một loài vi khuẩn cổ rất dễ lây đã di chuyển cùng với tổ tiên của con người trên toàn cầu qua eo biển Bering hàng nghìn năm trước mà không chết. Ông đưa ra giả thuyết rằng "các điều kiện sinh thái khác nhau cho ra các loại xoắn khuẩn khác nhau và theo thời gian những vi khuẩn có mối quan hệ chặt chẽ nhưng lại gây ra các bệnh khác nhau."[43]
Nguồn gốc của bệnh giang mai đang bị tranh cãi.[2] Bệnh giang mai đã có mặt ở châu Mỹ trước khi người châu Âu tới đây,[45] và nó có thể đã được mang từ châu Mỹ sang châu Âu bởi các thủy thủ đoàn trở về từ chuyến đi của Christopher Columbus đến châu Mỹ, hoặc nó có thể đã tồn tại ở châu Âu từ trước đó nhưng không được công nhận cho đến khi Columbus trở về không lâu.[46][47] Đây lần lượt là các giả thuyết "Colombian" và "tiền Colombia". Giả thuyết Colombia được hỗ trợ tốt hơn bằng những bằng chứng[46][48][49] và những phát hiện từ phân tích gien phát sinh loài gợi ý rằng trên thực tế, đó là một căn bệnh phát sinh từ châu Mỹ.[50]
Các ghi chép đầu tiên về sự bùng phát bệnh giang mai ở châu Âu xảy ra vào năm 1494 hoặc 1495 tại Naples, Ý, trong cuộc xâm lược của Pháp (Chiến tranh Ý 1494–98).[46][51] Vì nó được cho là do quân đội Pháp lây lan, nên ban đầu nó được người dân Naples gọi là "căn bệnh của người Pháp".[52] Năm 1530, cái tên "syphilis" - "bệnh giang mai" (tên một nhân vật) lần đầu tiên được bác sĩ và nhà thơ người Ý Girolamo Fracastoro sử dụng làm tiêu đề cho bài thơ tiếng Latinh của ông mô tả sự tàn phá của căn bệnh này ở Ý.[53][54] Nó còn được gọi là "Great Pox".[55][56]
Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, bệnh giang mai là một trong những gánh nặng sức khỏe cộng đồng lớn nhất về tỷ lệ hiện mắc, các triệu chứng và khuyết tật[57]:208–209[58] mặc dù các hồ sơ về tỷ lệ mắc thực sự của nó thường không được lưu giữ vì tình trạng ghê sợ các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong những thế kỷ đó.[57]:208–209 Theo một nghiên cứu năm 2020, hơn 20% cá nhân trong độ tuổi 15–34 vào cuối thế kỷ 18 ở London đã từng được điều trị bệnh giang mai.[59] Vào thời điểm đó, tác nhân gây bệnh vẫn chưa được biết nhưng ai cũng biết rằng nó lây lan qua đường tình dục và cũng thường từ mẹ sang con. Mối liên hệ của nó với tình dục, đặc biệt là ngoại tình và mại dâm, khiến nó trở thành đối tượng của sự sợ hãi và ghê tởm và là một điều cấm kỵ. Mức độ bệnh tật và tử vong của nó trong những thế kỷ đó phản ánh rằng thời đó y khoa không có sự hiểu biết đầy đủ về cơ chế bệnh sinh của nó và không có phương pháp điều trị thực sự hiệu quả. Sự nguy hiểm của nó không phải do bệnh trở nặng hoặc tử vong sớm trong quá trình của bệnh, mà là do tác động khủng khiếp của nó nhiều thập kỷ sau khi nhiễm bệnh, khi nó tiến triển thành bệnh giang mai thần kinh với các nốt sần ở lưng. Thời đó, các hợp chất và phân lập từ thủy ngân thường được sử dụng trong các phương pháp điều trị, thường gây hậu quả còn nặng hơn chính căn bệnh.[55]
Vi khuẩn gây bệnh, Treponema pallidum, được xác định lần đầu tiên bởi Fritz Schaudinn và Erich Hoffmann, vào năm 1905.[60] Phương pháp điều trị hiệu quả đầu tiên đối với bệnh giang mai là arsphenamine, được phát hiện bởi Sahachiro Hata vào năm 1909, trong một cuộc khảo sát hàng trăm hợp chất arsenic hữu cơ mới được tổng hợp do Paul Ehrlich dẫn đầu. Nó được sản xuất và bán trên thị trường từ năm 1910 với tên thương mại là Salvarsan bởi Hoechst AG.[61] Đây là hợp chất organoarsenic đầu tiên sử dụng trong trị liệu hóa học hiện đại.
Trong suốt thế kỷ 20, khi cả vi sinh vật học và dược học đã phát triển vượt bậc, bệnh giang mai, giống như nhiều bệnh truyền nhiễm khác, trở thành một gánh nặng có thể kiểm soát được hơn là một bí ẩn đáng sợ, ít nhất là ở các nước phát triển với những người có đủ khả năng chi trả để được chẩn đoán kịp thời và điều trị. Penicillin được phát hiện vào năm 1928, và hiệu quả của việc điều trị bằng penicillin đã được xác nhận trong các thử nghiệm vào năm 1943,[55] tại thời điểm đó nó trở thành phương pháp điều trị chính.[62]
Nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng, bao gồm Franz Schubert, Arthur Schopenhauer, Édouard Manet,[51] Charles Baudelaire,[63] và Guy de Maupassant được tin là đã mắc bệnh này.[64] Friedrich Nietzsche từ lâu được cho là đã phát điên do bệnh giang mai giai đoạn ba, nhưng chẩn đoán đó gần đây đã bị nghi ngờ.[65]
Các mô tả sớm nhất được biết đến của một người mắc bệnh giang mai là "Syphilitic Man" của Albrecht Dürer, một bản khắc gỗ cho là mô tả một Landsknecht, một lính đánh thuê người Bắc Âu[66] Huyền thoại về femme fatale hay "phụ nữ đầu độc" của thế kỷ 19 được cho là một phần bắt nguồn từ sự tàn phá của bệnh giang mai, với những ví dụ kinh điển trong văn học bao gồm "La Belle Dame sans Merci" của John Keats.[67][68]
Nghệ sĩ Stradanus đã làm một bản in có tên "Chuẩn bị và sử dụng Guayaco để điều trị bệnh giang mai", mô tả cảnh một người đàn ông giàu có được điều trị bệnh giang mai bằng loại cây nhiệt đới guaiacum vào khoảng năm 1590.[69]
"Nghiên cứu Tuskegee về bệnh giang mai không được điều trị ở nam giới da đen" là một nghiên cứu lâm sàng khét tiếng, phi đạo đức và phân biệt chủng tộc được thực hiện từ năm 1932 đến năm 1972 bởi Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ.[70][71] Trong khi mục đích của nghiên cứu này là quan sát sự tiến triển tự nhiên của bệnh giang mai không được điều trị; những người đàn ông Mỹ gốc Phi trong cuộc thí nghiệm bị chính phủ Hoa Kỳ nói dối là họ đang được điều trị miễn phí chứng "máu xấu".[72]
Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện nghiên cứu này vào năm 1932 với sự hợp tác của Đại học Tuskegee, một trường cao đẳng dành cho người da đen ở Alabama. Các nhà nghiên cứu đã thu nhận 600 người Mỹ gốc Phi nghèo từ hạt Macon, bang Alabama vào nghiên cứu. Trong số những người đàn ông này, 399 người đã mắc bệnh giang mai trước khi nghiên cứu bắt đầu, và 201 không mắc bệnh.[71] Chăm sóc y tế, bữa ăn nóng và bảo hiểm mai táng miễn phí đã được trao cho những người tham gia. Những người đàn ông được cho biết rằng nghiên cứu sẽ kéo dài sáu tháng, nhưng cuối cùng nó vẫn tiếp tục trong 40 năm.[71] Không ai trong số những người đàn ông bị nhiễm bệnh được thông báo rằng họ mắc bệnh và không ai được điều trị bằng penicillin ngay cả sau khi thuốc kháng sinh đã được chứng minh là có thể điều trị thành công bệnh giang mai. Theo Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh, những người đàn ông được cho biết họ đang được điều trị vì "máu xấu" - một thuật ngữ để chỉ thiếu máu hoặc bệnh giang mai - là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở nam giới người Mỹ gốc Phi.[71]
Nghiên cứu kéo dài 40 năm đã trở thành một ví dụ điển hình về sự kém y đức vì các nhà nghiên cứu đã cố tình từ chối điều trị người bệnh bằng penicillin và vì các đối tượng đã hiểu sai về mục đích của nghiên cứu. Tiết lộ vào năm 1972 về những thất bại của nghiên cứu này bởi một người tố giác, Peter Buxtun, đã dẫn đến những thay đổi lớn trong luật pháp và quy định của Hoa Kỳ về việc bảo vệ những người tham gia nghiên cứu lâm sàng. Giờ đây, các nghiên cứu yêu cầu sự đồng ý dựa trên việc hiểu rõ nghiên cứu[73], thông tin chẩn đoán và báo cáo chính xác kết quả xét nghiệm.[74]
Các thí nghiệm tương tự đã được thực hiện ở Guatemala từ năm 1946 đến năm 1948. Nó được thực hiện dưới thời chính quyền của Tổng thống Mỹ Harry S. Truman và Tổng thống Guatemala Juan José Arévalo với sự hợp tác của một số bộ và quan chức y tế Guatemala.[75] Các bác sĩ đã lây nhiễm bệnh cho binh lính, gái mại dâm, tù nhân và bệnh nhân tâm thần mắc bệnh giang mai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác mà không có sự đồng ý của đối tượng và điều trị hầu hết các đối tượng bằng thuốc kháng sinh. Thí nghiệm khiến ít nhất 83 người chết.[76][77] Vào tháng 10 năm 2010, Mỹ đã chính thức xin lỗi Guatemala vì những vi phạm đạo đức đã diễn ra. Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Kathleen Sebelius tuyên bố "Mặc dù những sự kiện này đã xảy ra hơn 64 năm trước, nhưng chúng tôi rất phẫn nộ vì nghiên cứu đáng trách như vậy có thể đã xảy ra dưới chiêu bài y tế công cộng. Chúng tôi vô cùng lấy làm tiếc vì điều đó đã xảy ra, và chúng tôi xin lỗi tất cả những cá nhân đã bị ảnh hưởng bởi các hoạt động nghiên cứu ghê tởm như vậy."[78] Các thí nghiệm được dẫn dắt bởi bác sĩ John Charles Cutler, người cũng tham gia vào giai đoạn cuối của thí nghiệm bệnh giang mai Tuskegee[79]
Lần đầu tiên nó được người Pháp gọi là "grande verole" hay "bệnh đậu lớn", để phân biệt nó với bệnh đậu mùa bởi vì trong giai đoạn đầu của bệnh, các ban nước lớn phát ra tương tự như bệnh đậu mùa. Các tên lịch sử khác bao gồm "button scurvy", sibbens, frenga và dichuchwa, trong số những tên khác.[80][81]
Vì nó là một căn bệnh đáng hổ thẹn, căn bệnh này đã được gọi ở một số quốc gia bằng việc gán tên của quốc gia láng giềng có nhiều xung đột với họ. Người Anh, Đức và Ý gọi nó là "bệnh Pháp", trong khi người Pháp gọi nó là "bệnh Neapolitan". Người Hà Lan gọi nó là "bệnh Tây Ban Nha" trong Cuộc nổi dậy của Hà Lan chống lại Tây Ban Nha. Đối với người Thổ Nhĩ Kỳ, nó được gọi là "căn bệnh Cơ đốc giáo" hay "bệnh Frank" (frengi), trong khi ở Ấn Độ, người theo đạo Hindu và đạo Hồi đặt tên căn bệnh này theo tên nhau.[62] Người Nga gọi nó là "căn bệnh của người Ba Lan", người Tahiti gọi nó là "bệnh của người Anh". Những cái tên "quốc gia" là do bệnh thường được lây lan bởi các thủy thủ nước ngoài và các binh sĩ do họ thường xuyên quan hệ tình dục với gái mại dâm ở địa phương.
Tên tiếng Anh của "giang mai" là "Syphilis" được đặt ra bởi một bác sĩ kiêm nhà thơ người Ý: Girolamo Fracastoro trong sử thi bằng tiếng Latinh viết vào năm 1530 của ông, có tiêu đề Syphilis sive gallicus (Giang mai hay các bệnh của người Pháp). Các nhân vật chính của bài thơ là một người chăn cừu tên là Syphilus (có lẽ là một lỗi chính tả biến thể của Sipylus, một nhân vật trong Metamorphoses của Ovid). Syphilus được biết đến như là người đầu tiên bị mắc bệnh này, do thần Apollo trừng phạt vì các thách thức của Syphilus. Từ nhân vật này đã bắt nguồn một cái tên cho căn bệnh giang mai.[82]
I will now briefly allude to some historical accounts on this subject, particularly as regards the Old World. In the Aphorisms of Hippo crates, 400 b.c., and in the Sentences of Celsus, 400 years after Hippocrates, as found in Sprengell's translations, in 1708. When Sprengell alludes to his own added Aphorisms " On the French dis-ease," he says, it was just known to former more temperate ages, and, in a note, how far it was known in former ages, he refers to Ecclesiasticus, c. 19, v. 2, 3. Hippocrates, in.; Epidemics, ill., 41, 74, 59, and i. Be Morbus Mulierum, 127. Galen, lib. iv.; Meth. c. 5, and lib. i. De Genet:, c. 23; lib. iii. Epidemics, sec. 3, com. 25. Pliny His. Nat., lib. 26, c. i. Avicen, lib. 2. Valesius; Rhodius; Vigo-nius, Lib. de Morb. Gall., c. &c. And that it does not, according to the vulgar opinion, derive its origin from Naples, France, East or West Indies. Josephus, c. xi., p. 108, says, when on the subject of purification, that Moses ordered those who had gonorrhoea should not come into the city.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Music08
"He who knows syphilis knows medicine" said Father of Modern Medicine, Sir William Osler, at the turn of the 20th Century. So common was syphilis in days gone by, all physicians were attuned to its myriad clinical presentations. Indeed, the 19th century saw the development of an entire medical subspecialty – syphilology – devoted to the study of the great imitator, Treponema pallidum.
Conducted between 1946 and 1948, the experiments were led by John Cutler, a US health service physician who would later be part of the notorious Tuskegee syphilis study in Alabama in the 1960s.