Gregory van der Wiel

Gregory van der Wiel
Van der Wiel thi đấu cho Hà Lan tại UEFA Euro 2012
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Gregory Kurtley van der Wiel[1]
Chiều cao 1,82 m (5 ft 11+12 in)
Vị trí Hậu vệ phải
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1996–2002 Ajax
2002–2005 Haarlem
2005–2006 Ajax
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2007–2012 Ajax 130 (12)
2012–2016 Paris Saint-Germain 89 (4)
2016–2017 Fenerbahçe 11 (0)
2017–2018 Cagliari 5 (0)
2018–2019 Toronto FC 27 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2009–2015 Hà Lan 46 (0)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Hà Lan
Bóng đá nam
FIFA World Cup
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Nam Phi 2010 Đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Gregory Kurtley van der Wiel (phát âm tiếng Hà Lan[ˈɣrɛɣɔri vɐn dər ˈʋil]; sinh ngày 3 tháng 2 năm 1988 tại Amsterdam) là một cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan.

Là một sản phẩm của Học viện bóng đá trẻ Ajax, anh thi đấu ở vị trí hậu vệ phải. Năm 2010, anh đã được nhận Giải thưởng Johan Cruijff, giải dành cho cầu thủ trẻ xuất sắc nhất trong năm của bóng đá Hà Lan.

Anh có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Hà Lan vào tháng 2 năm 2009 và đã cùng các đồng đội mình có màn trình diễn ấn tượng tại World Cup 2010 với vị trí hạng nhì chung cuộc. Đồng đội của anh tại đội tuyển Hà Lan, John Heitinga đã gọi anh là người kế thừa xứng đáng vị trí Michael Reiziger để lại trong đội tuyển.[2]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Van der Wiel có trận đấu đầu tiên cho Ajax vào ngày 11 tháng 3 năm 2007 trong chiến thắng 4-1 trước FC Twente.[3] Anh còn được thi đấu 3 trận nữa trong mùa giải này. Cuối mùa giải 2007–08, anh góp mặt trong chiến thắng 1-0 của Ajax trước PSV Eindhoven giúp đội bóng này giành được danh hiệu Johan Cruijff-schaal (Siêu cúp Hà Lan), và đây cũng là danh hiệu đầu tiên trong sự nghiệp của anh.[4]

Mùa giải 2008-09 chứng kiến Van der Wiel thường xuyên có mặt trong đội hình chính thức dưới thời tân huấn luyện viên Marco van Basten. Từ vị trí trung vệ ban đầu, anh được van Basten chuyển sang cho đá vị trí hậu vệ phải và nó trở thành vị trí của anh cho đến ngày nay. Ngày 17 tháng 12 năm 2008, trong trận đấu tại cúp UEFA với Slavia Prague, anh đã có tình huống không may đánh đầu phản lưới nhà và trận đấu kết thúc với tỉ số 2-2.[5] Van der Wiel có bàn thắng đầu tiên tại Giải Ngoại hạng Hà Lan (Eredivisie) cho Ajax vào ngày 1 tháng 3 năm 2009 trong chiến thắng 2-0 trên sân khách trước FC Utrecht tại sân Stadion Galgenwaard.[6] Bàn thắng thứ hai đến 22 ngày sau trong chiến thắng 3-0 trước NAC Breda.[7] Cuối mùa giải 2008–09, Van der Wiel được trao danh hiệu "Tài năng trẻ của Ajax trong năm" với 40 trận thi đấu cho đội bóng này. Thành tích này cũng giúp anh được gọi vào đội tuyển Hà Lan.[8]

Van der Wiel bắt đầu mùa giải 2009–10 dưới thời tân huấn luyện viên Martin Jol với phong độ tốt. Anh có bàn thắng thứ ba cho Ajax vào ngày 8 tháng 8 năm 2009 trong chiến thắng 4-1 trước RKC Waalwijk.[9] Trong trận này, đội trưởng Ajax Luis Suárez đã lập một hat-trick còn van der Wiel có bàn thắng đầu tiên trên sân Amsterdam ArenA.[9] Bàn thắng thứ hai của Van der Wiel trong mùa giải đến vào ngày 25 tháng 10 năm 2009 trong chiến thắng 4-2 trước đương kim vô địch AZ Alkmaar.[10] Ngày 1 tháng 11 năm 2009, Van der Wiel ghi bàn trong trận "klassieker" với đại kình địch Feyenoord, giúp Ajax giành chiến thắng chung cuộc 5-1.[11] Ngày 6 tháng 5 năm 2010, anh đã chơi trong trận chung kết Cúp quốc gia Hà Lan 2009-10, nơi Ajax đã đánh bại Feyenoord 4-1.[12] Cuối mùa giải, Van der Wiel đã được nhận Giải thưởng Johan Cruijff, giải thưởng dành cho cầu thủ trẻ xuất sắc nhất trong năm của bóng đá Hà Lan.[13]

Paris Saint-Germain

[sửa | sửa mã nguồn]

Van der Wiel chuyển đến Paris Saint-Germain vào ngày 1 tháng 9 năm 2012 với phí chuyển nhượng 6 triệu €.[14] Anh được trao số áo 23 tại đội bóng Pháp và có trận đấu đầu tiên cho PSG vào ngày 22 tháng 9 năm 2012 trong trận đấu sân khách thắng SC Bastia 4–0.[15] Trong mùa bóng đầu tiên của mình tại Pháp, Van der Wiel phải thường xuyên ngồi ghế dự bị do vị trí hậu vệ cánh phải chính thức tại PSG thuộc về đội trưởng Christophe Jallet.[16]

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Van der Wiel và các cổ động viên Hà Lan.

Van der Wiel đã từng thi đấu cho đội tuyển U-21 Hà Lan, trong đó có giải Toulon 2007. Anh có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Hà Lan vào ngày 11 tháng 2 năm 2009, khi vào sân thay cho John Heitinga trong trận giao hữu với Tunisia.[17] Ngày 28 tháng 3 năm 2009, anh góp mặt trong chiến thắng 3-0 trước Scotland tại vòng loại World Cup 2010.[18] Anh đã có 90 phút thi đấu trọn vẹn trọng trận thắng Macedonia 4-0 bốn ngày sau đó.[19] Kể từ đó, vị trí hậu vệ phải ở đội tuyển Hà Lan đã chính thức thuộc về Van der Wiel.

Sự cố Witter

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 10 năm 2009, Van der Wiel đã trở thành tâm điểm của sự chỉ trích sau khi anh không thể cùng đội tuyển Hà Lan đến Úc để tham gia một trận đấu giao hữu do chấn thương trong lúc thi đấu cho Ajax. Trong lúc ở nhà, anh đã đến một buỗi trình diễn nhạc của Lil' Wayne và đưa ảnh chụp của mình với ca sĩ nhạc rap này lên trang Twitter của bản thân.[20] Nhiều nhân vật nổi tiếng của bóng đá Hà Lan đã chỉ trích anh về hành động này, trong đó có huấn luyện viên đội tuyển Hà Lan Bert van Marwijk: "Thật là một điều lạ lung khi cậu ấy nói với tôi rằng mình không thể tham gia trận đấu theo yêu cầu của các nhân viên y tế tại Ajax, lại có thể đi xem ca nhạc."[21] Huấn luyện viên Ajax Martin Jol đã bảo vệ người học trò của mình khi ông cho rằng sự kiện này đã bị thổi phồng bởi giới truyền thông và đó không thể được xem là một sự thiếu tôn trọng của cầu thủ này đối với đội tuyển.[21] Van Marwijk sau đó đã tha thứ cho Van der Wiel, khẳng định "điều này sẽ không ảnh hưởng đến vị trí của anh ở đội tuyển".[22]

World Cup 2010

[sửa | sửa mã nguồn]

Van der Wiel sau đó đã được huấn luyện viên Bert van Marwijk triệu tập vào đội tuyển Hà Lan tham dự World Cup 2010 tại Nam Phi.[23] Tại vòng bảng, anh góp mặt trong đội hình ra sân ở hai trận đầu tiên gặp Đan MạchNhật Bản.

Hai thẻ vàng liên tiếp trong các trận đấu ở vòng 2 và tứ kết với SlovakiaBrasil đã khiến Van der Wiel phải lãnh án treo giò trong trận bán kết với Uruguay.[24] Anh trở lại trong trận chung kết, nơi Hà Lan để thua Tây Ban Nha 1-0 và đành giành Huy chương Bạc.

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 9 tháng 4 năm 2016.[25][26]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia Châu Âu Tổng cộng
Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng Số lần ra sân Số bàn thắng
Ajax 2006–07 4 0 0 0 0 0 4 0
2007–08 6 0 2 0 2 0 10 0
2008–09 32 2 2 0 9 0 43 2
2009–10 34 6 6 0 10 0 50 6
2010–11 32 1 5 0 14 0 51 1
2011–12 19 2 1 0 6 1 26 3
2012–13 3 1 0 0 0 0 3 1
Tổng cộng 130 12 16 0 41 1 187 13
Paris Saint-Germain 2012–13 22 1 2 0 5 0 29 1
2013–14 25 0 4 0 6 0 35 0
2014–15 25 1 6 0 10 1 41 2
2015–16 17 2 3 0 5 0 25 2
Tổng cộng 89 4 15 0 26 1 132 5
Tổng cộng sự nghiệp 215 15 31 0 67 2 314 17

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 6 tháng 9 năm 2015[27]
Đội tuyển quốc gia Hà Lan
Năm Số lần ra sân Số bàn thắng
2009 8 0
2010 12 0
2011 9 0
2012 6 0
2013 1 0
2014 5 0
2015 5 0
Tổng cộng 46 0

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]
Ajax
Paris Saint-Germain

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Cha của anh (có gốc Hà Lan) quê ở Curaçao, còn mẹ anh là người Hà Lan. Bên cạnh tiếng Hà Lan, Van der Wiel còn biết nói tiếng Anh.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “List of Players” (PDF). FIFA. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
  2. ^ “Heitinga: wat Alves kan, kan Van der Wiel ook” (bằng tiếng Hà Lan). Nu Sport. ngày 4 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  3. ^ “Twente Enschede 1 – 4 Ajax Amsterdam”. ESPN Soccernet. ngày 11 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2009.
  4. ^ a b “Ajax - Gabri bezorgt Ajax Johan Cruijff Schaal” (bằng tiếng Hà Lan). Ajax.nl. ngày 11 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  5. ^ “Ajax Amsterdam 2 – 2 Slavia Praha”. ESPN Soccernet. ngày 17 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
  6. ^ “Van der Wiel gaat voor de top” (bằng tiếng Hà Lan). Het Parool. ngày 1 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
  7. ^ “NAC Breda 0 – 3 Ajax Amsterdam”. ESPN Soccernet. ngày 22 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
  8. ^ a b “Suarez en van der Wiel gehuldigd met trofeeën” (bằng tiếng Hà Lan). Ajax1. ngày 10 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
  9. ^ a b “Suarez hits hat-trick as Ajax cruise past Waalwijk”. Reuters. ngày 8 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009.
  10. ^ “AZ Alkmaar 2 – 4 Ajax Amsterdam”. ESPN Soccernet. ngày 25 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2009.
  11. ^ “Ajax Amsterdam 5 – 1 Feyenoord Rotterdam”. ESPN Soccernet. ngày 1 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2009.
  12. ^ a b “Report: Feyenoord Rotterdam vs Ajax Amsterdam - Dutch Cup”. ESPN Soccernet. ngày 6 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  13. ^ a b Bart van Dooijeweert (ngày 3 tháng 5 năm 2010). “Van der Wiel gekozen tot Talent van het Jaar” (bằng tiếng Hà Lan). Elfvoetbal.nl. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2010.
  14. ^ “PSG sign Van Der Wiel”. espn. ngày 1 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2014.
  15. ^ “Basisplaats Van der Wiel tegen SC Bastia” (bằng tiếng Hà Lan). Voetbal Primeur. ngày 14 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2014.
  16. ^ “Blanc plaatst Van der Wiel nog niet boven Jallet” (bằng tiếng Hà Lan). Voetbal Primeur. ngày 26 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2014.
  17. ^ “Match Facts: Tunisia v Holland”. Sky Sports. ngày 11 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  18. ^ “Netherlands 3–0 Scotland”. BBC. ngày 28 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  19. ^ “Netherlands – FYR Macedonia”. FIFA. ngày 1 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2009.
  20. ^ 'Raar dat Van der Wiel concert bezoekt' (bằng tiếng Hà Lan). Algemeen Dagblad. ngày 22 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
  21. ^ a b “Jol vindt Twitter-affaire Van der Wiel erg opgeblazen” (bằng tiếng Hà Lan). Voetbal International. ngày 14 tháng 10 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009. Nguyên văn: "Het is wel raar dat hij dan wel bij een concert is, terwijl hij zich bij mij had afgemeld omdat hij niet mocht vliegen van de arts van Ajax"
  22. ^ “Van Marwijk vergeeft Van der Wiel na 'twitter-incident'. Sportweek. ngày 22 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2009. Nguyên văn: "hij hoeft er niet van uit te gaan dat dit gevolgen zal hebben voor zijn plek bij Oranje."
  23. ^ “Holland coach Bert van Marwijk finalises World Cup squad”. The Guardian. Press Association. ngày 27 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2010.
  24. ^ Uruguay - Hà Lan: Đợi chờ cơn bão lớn
  25. ^ “Gregory Van Der Wiel Statistics”. ESPN Soccernet. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
  26. ^ “Gregory Van Der Wiel Statistics”. Voetbal International. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009.
  27. ^ Gregory van der Wiel tại National-Football-Teams.com

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Seira J. Loyard trong Noblesse
Nhân vật Seira J. Loyard trong Noblesse
Seira J. Loyard (Kor. 세이라 J 로이아드) là một Quý tộc và là một trong tám Tộc Trưởng của Lukedonia. Cô là một trong những quý tộc của gia đình Frankenstein và là học sinh của trường trung học Ye Ran. Cô ấy cũng là thành viên của RK-5, người cuối cùng tham gia.
Phổ hiền Rien: Lãnh đạo Lord Tensen - Jigokuraku
Phổ hiền Rien: Lãnh đạo Lord Tensen - Jigokuraku
Rien (Từ điển, Bính âm: Lián), còn được gọi là biệt danh Fugen Jōtei (Từ điển, Nghĩa đen: Shangdi Samantabhadra), là một Sennin cấp Tensen, người từng là người cai trị thực sự của Kotaku, tổ tiên của Tensens, và là người lãnh đạo của Lord Tensen.
Tóm tắt và phân tích tác phẩm
Tóm tắt và phân tích tác phẩm "Đồi thỏ" - Bản hùng ca về các chiến binh quả cảm trong thế giới muôn loài
Đồi thỏ - Câu chuyện kể về hành trình phiêu lưu tìm kiếm vùng đất mới của những chú thỏ dễ thương
Baemin từ
Baemin từ "tân binh" đầy nổi bật thành "tàn binh" bên bờ vực dừng hoạt động ở Việt Nam
Thương hiệu "viral" khắp cõi mạng nhưng "không bao giờ có lãi", liệu có lặp lại câu chuyện của những chú gà vàng đen Beeline?