Họ Mã tiền (danh pháp khoa học: Loganiaceae) là một họthực vật hai lá mầm, thuộc về bộ Long đởm (Gentianales). Họ này có 13 chi, phân bố ở các vùng nhiệt đới trên toàn thế giới.
Các phân loại đầu tiên gắn cho họ này tới 29 chi. Một số sơ đồ phân loại, chẳng hạn của Takhtadjan, đã chia họ Loganiaceae được miêu tả tại đây thành ra nhiều (tới 4) họ là: Strychnaceae, Antoniaceae, Spigeliaceae và Loganiaceae. Các nghiên cứu DNA gần đây về bộ Long đởm đã tìm thấy các chứng cứ ủng hộ mạnh mẽ cho Loganiaceae như là một nhánh đơn nguồn gốc chứa 13 chi và khoảng 420 loài. Các chi đa dạng loài nhất là Strychnos (190 loài), Mitrasacme (55 loài), Geniostoma (55 loài).
Logania (bao gồm cả Nautophylla): Khoảng 37 loài, gần như đặc hữu Australia và chỉ có 1 loài ở New Caledonia cộng 1 loài ở New Zealand (có lẽ đã tuyệt chủng). Chia làm 2 tổ đơn ngành là Logania và Stomandra nhưng bản thân Logania là không đơn ngành.[3] Năm 2014 Foster et al. đề xuất việc công nhận tổ Stomandra như là một chi mới, gọi là Orianthera với 13 loài.[4]
Geniostoma (bao gồm cả Anasser): Khoảng 28 loài. Phân bố trải rộng từ Australasia tới Thái Bình Dương, về phía bắc tới miền nam Nhật Bản, về phía tây tới quần đảo Mascarene.
Labordia: Khoảng 17 loài đặc hữu Hawaii. Về hình thái là tương tự Geniostoma, khác ở chỗ ống tràng dài hơn các thùy, cụm hoa đầu cành (ở Geniostoma là ở nách lá) và quả nang 2 hoặc 3 (ít khi 4) mảnh vỏ trong khi ở Geniostoma luôn là 2. Phân tích phát sinh chủng loài của Gibbons et al. năm 2012 cho thấy tốt nhất nên gộp Labordia trong Geniostoma,[3] do việc công nhận Labordia như một chi độc lập làm cho Geniostoma trở thành nhóm cận ngành.
Mitreola (bao gồm cả Cynoctonum): Trước đây xếp trong Spigelieae. Khoảng 14 loài, phân bố rộng khắp ở châu Mỹ, châu Phi, châu Á, New Guinea và miền bắc Australia. Loài M. minima lại phân bố hạn hẹp ở tây nam Australia và phân tích phát sinh chủng loài của Gibbons et al. (2012) cho thấy nó không có quan hệ họ hàng gần với các loài còn lại của chi Mitreola mà có quan hệ chị-em với nhóm Schizacme + Phyllangium + Mitrasacme và tốt nhất là nên coi nó như một chi độc lập.[3] Năm 2013 Gibbons et al. chuyển nó sang chi mới gọi là Adelphacme.[5]
Mitrasacme: Trước đây xếp trong Spigelieae. Khoảng 54 loài, chủ yếu ở Australia, nhưng mở rộng tới New Caledonia, Malesia và châu Á.
Schizacme: Tách ra từ Mitrasacme năm 1996. Khoảng 3+ loài cây bụi nhỏ lâu năm ở Tasmania, Victoria (nam Australia) và New Zealand.
Phyllangium: Tách ra từ Mitrasacme năm 1996. Khoảng 5 loài cây thân thảo đặc hữu vùng ôn đới Australia.
Strychnos (bao gồm cả Atherstonea, Scyphostrychnos)
Tông Spigelieae
Spigelia (bao gồm cả Coelostylis, Pseudospigelia). Phân tích phát sinh chủng loài của Yang et al. (2016) cho thấy tốt nhất nên gộp Spigelieae trong tông Strychneae.[6]
^“GRIN Genera Records of Loganiaceae”. Germplasm Resources Information Network. United States Department of Agriculture. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
^“Family: Loganiaceae R. Br. ex Mart., nom. cons”. Germplasm Resources Information Network. United States Department of Agriculture. ngày 17 tháng 1 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
^ abcdKerry L. Gibbons, Murray J. Henwood & Barry J. Conn. 2012. Phylogenetic relationships in Loganieae (Loganiaceae) inferred from nuclear ribosomal and chloroplast DNA sequence data. Australian Systematic Botany 25: 331–340. doi:10.1071/SB12002
^Charles SP Foster, Barry J Conn, Murray J Henwood & Simon YW Ho. 2014. Molecular data support Orianthera: a new genus of Australian Loganiaceae. Telopea 16:149-158. doi:10.7751/telopea20147853
^Kerry L. Gibbons, Barry J. Conn & Murray J. Henwood. 2013. Adelphacme (Loganiaceae), a new genus from south-western Australia. Telopea 15: 37-43. doi:10.7751/telopea2013005.
Hiện tại thì cả tên cung mệnh lẫn tên banner của Kaveh đều có liên quan đến thiên đường/bầu trời, tên banner lão là 天穹の鏡 (Thiên Khung chi Kính), bản Việt là Lăng kính vòm trời, bản Anh là Empryean Reflection (Heavenly reflection