Hồ Ngọc Cẩn | |
---|---|
![]() Đại tá Hồ Ngọc Cẩn | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 11/1973 – 30/4/1975 |
Cấp bậc | -Đại tá |
Vị trí | Quân khu 4 |
Nhiệm kỳ | 6/1970 – 11/1973 |
Cấp bậc | -Trung tá (6/1970) -Đại tá (6/1972) |
Tư lệnh Sư đoàn | -Chuẩn tướng Trần Bá Di |
Vị trí | Quân khu 4 |
Nhiệm kỳ | 1/1966 – 6/1970 |
Cấp bậc | -Đại úy -Thiếu tá (6/1968) |
Tư lệnh Sư đoàn | -Nguyễn Văn Minh Nguyễn Vĩnh Nghi |
Vị trí | Vùng 4 chiến thuật |
Nhiệm kỳ | 2/1964 – 1/1966 |
Cấp bậc | -Trung úy (2/1964) -Đại úy (6/1965) |
Tiểu đoàn trưởng | -Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt |
Vị trí | Vùng 4 chiến thuật |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | ![]() |
Sinh | 24 tháng 3 năm 1938 Cần Thơ, Việt Nam Cộng Hòa |
Mất | 37 tuổi) Cần Thơ, Việt Nam | 14 tháng 8, 1975 (
Nguyên nhân mất | Bị tử hình |
Nghề nghiệp | Quân nhân |
Dân tộc | Kinh |
Vợ | Nguyễn Thị Cảnh |
Học vấn | Thành chung |
Alma mater | -Trường Thiếu sinh quân -Liên trường Võ khoa Thủ Đức -Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế -Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ |
Quê quán | Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, Kiên Giang |
Binh nghiệp | |
Thuộc | ![]() |
Phục vụ | ![]() |
Năm tại ngũ | 1955-1975 |
Cấp bậc | ![]() |
Đơn vị | ![]() ![]() ![]() ![]() |
Chỉ huy | ![]() |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Tặng thưởng | ![]() |
Hồ Ngọc Cẩn (1938 – 1975), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ trường Thiếu sinh quân và tốt nghiệp khóa Sĩ quan Hiện dịch Đặc biệt tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang vào đầu thập niên 60, và là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng một tỉnh thuộc Quân khu 4 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù có lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản. Hết đạn, ông bị bắt giam. Ngày 14 tháng 8 năm 1975, ông bị Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tử hình bằng cách xử bắn tại Sân vận động Cần Thơ.
Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại xã Vĩnh Thanh Vân, Rạch giá, Kiên Giang, miền tây Nam phần Việt Nam. Thân phụ ông là một hạ sĩ quan trong Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Năm 1945, ông bắt đầu đi học Tiểu học thì Chiến tranh Pháp-Việt Minh bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn một thời gian ngắn. Đến năm 1947 ông mới tiếp tục đi học trở lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp.
Năm 1951, thân phụ nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu sinh quân Gia Định thuộc Đệ nhất quân khu[2] ở Gia Định. Ông được thu nhận vào lớp nhất (lớp 5 hiện nay) niên khóa 1951-1952 và thi đậu Tiểu học vào cuối niên học. Ông tiếp tục học lên hệ Trung học theo giáo trình Pháp, song song với chương trình Phổ thông ông cũng được đào tào căn bản về lĩnh vực quân sự. Cuối năm 1952, trường sở chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho. Ông tiếp tục theo học ở đây cho đến hết niên học đệ tứ (lớp 8 hiện nay).
Tháng 8 năm 1955, ông tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp và được cấp "chứng chỉ tốt nghiệp" tương đương với văn bằng Thành chung. Ngay sau đó ông được gửi lên học tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức, chuyên ngành "vũ khí" (niên khóa 1955-1956). Sau 3 tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất (khóa CC1) với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì (khóa CC2).
Giữa năm 1956, ông chính thức gia nhập Quân đội Việt Nam Cộng hòa với cấp bậc Binh nhì, mang số quân: 58/106.282. Sau 9 tháng phục vụ trong quân đội, theo quy chế áp dụng cho các quân nhân thuộc hàng binh sĩ xuất thân từ trường Thiếu sinh quân, cứ 3 tháng thì được thăng một cấp, ông lần lượt được thăng lên cấp Hạ sĩ, Hạ sĩ I rồi Trung sĩ, sau đó được giữ lại làm Huấn luyện viên thuộc khoa vũ khí tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức. Năm 1959, ông được thăng cấp Trung sĩ I.
Đầu thập niên 60, chiến tranh tại miền Nam tái phát và leo thang ở một vài vùng. Đến năm 1961 thì lan rộng, nhất là tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long thuộc Vùng 4 chiến thuật. Đối phương đã chuyến từ chiến thuật du kích sang công kích bằng những đơn vị từ cấp Trung đội trở lên của chủ lực miền. Để đáp ứng và giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan trong quân đội, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt hiện dịch. Ông được nhập học khóa 2 Nhân Vị ở trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Đồng Đế, Nha Trang, khai giảng ngày 27 tháng 2 năm 1961. Ngày 31 tháng 1 năm 1962 mãn khóa tốt nghiệp với Cấp bậc Chuẩn úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn về Binh chủng Biệt động quân, tiếp tục được cử theo học một khóa huấn luyện đặc biệt đào tạo cán bộ Biệt động quân và khóa "Rừng núi Sình lầy" tại Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ (Ninh Hòa) trong thời gian 4 tháng rưỡi.
Giữa năm 1962 mãn khóa học ở Dục Mỹ, ông được chuyển về Tiểu đoàn 42 Biệt động quân[3], đồn trú và hoạt động tại khu vực Đồng bằng sông Hậu Giang thuộc Khu 42 chiến thuật[4] với chức vụ Trung đội trưởng.
Ngày Quốc khánh của Chính thể Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1962, ông được đặc cách tại mặt trận thăng cấp Thiếu úy và được cử giữ chức vụ Đại đội trưởng. Do lập được nhiều công lao nên chỉ một thời gian ngắn, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh. Ngày 2 tháng 2 năm 1964 ông được đặc cách thăng cấp Trung úy và lên giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42 BĐQ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965,[5] lần thứ ba ông được đặc cách tại mặt trận thăng cấp Đại úy tại nhiệm.
Đầu năm 1966, ông rời khỏi đơn vị Biệt động quân, nhận sự vụ lệnh chuyển sang Sư đoàn Bộ binh ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, thuộc Trung đoàn 33 của Sư đoàn 21 Bộ binh.
Ngày 1 tháng 5 năm 1975, không tuân lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng đầu hàng, ông vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị trực thuộc chiến đấu đến cùng chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản Tiểu khu. Hết đạn, ông bị quân Giải phóng bắt tại mặt trận. Sau đó, ông bị Chính quyền biệt giam tại nhà tù Cần thơ 3 tháng rưỡi.
Ngày 14 tháng 8 năm 1975, Chính quyền tuyên án tử hình ông và đưa ông ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ.[9] Trước khi chết anh ấy nói: "Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo Cộng Sản. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm".[10]
-Bảo quốc Huân chương đệ tứ đẳng[11]
-Hai mươi lăm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu
-Ba Chiến thương Bội tinh
-Hai Huy chương Hoa Kỳ.