Tết Nguyên Đán | |
---|---|
Tên chính thức | Tết Nguyên Đán |
Tên gọi khác | Tết Ta |
Kiểu | Văn hóa, quốc gia |
Ý nghĩa | Đánh dấu ngày đầu tiên của năm mới theo lịch âm |
Ngày | Mùng 1 tháng Giêng (Âm lịch) |
Năm 2024 | Thứ bảy, ngày 10 tháng 2 (Giáp Thìn) |
Năm 2025 | Thứ tư, ngày 29 tháng 1 (Ất Tỵ) |
Hoạt động | Thăm hỏi bạn bè, người thân Thờ cúng tổ tiên Mừng tuổi Mở hàng đầu năm |
Tết Nguyên Đán (còn gọi là Tết Cả,[1] Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết Á Đông hay đơn giản là Tết) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của Việt Nam và các nước thuộc vùng văn hóa Á Đông như Trung Quốc, Đài Loan (gọi là Xuân Tiết), Hàn Quốc, Triều Tiên (gọi là Seollal) và Nhật Bản (gọi là Shōgatsu), Mông Cổ (gọi là Tsagaan Sar) và cộng đồng người những người theo văn hóa Á Đông ở hải ngoại cũng ăn Tết này.
Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 20 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).[2] Tại Việt Nam trước ngày Tết còn có phong tục như "cúng Táo Quân" (23 tháng Chạp Âm lịch) và "cúng Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng Chạp Âm lịch).
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1)[3] tháng Giêng âm lịch trên toàn nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Sắm cây đào và cây quất ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ , hay cây mai và dưa hấu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên. Hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên luôn được diễn ra trong những ngày Tết, kết hợp với các món ăn truyền thống như: mứt, hạt dưa và bánh chưng, bánh tét, dưa hành, giò lụa, giò xào,... là những món ăn không thể thiếu trong ngày tết của người Việt.
Từ nguyên tết trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ 節, mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là tiết. Tết và tiết đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ “節”. “tết” xuất hiện trước “tiết”, vào giai đoạn chữ "tiết" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tết/. “Tiết” xuất hiện sau “tết”, vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "tiết" 節 đã biến đổi thành /tiết/. Ban đầu cả "tết" và "tiết" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ "tiết" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt vay mượn, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành "tết" và "tiết" như hiện nay.[4] "Tiết Nguyên Đán" trong 24 điểm "Tiết khí" (chữ Hán: 節氣) của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng (Nông lịch). Từ “nguyên” 元 trong “Nguyên Đán” 元旦 có nghĩa là sự khởi đầu hay là sơ khai và "đán" 旦 có nghĩa là buổi sáng sớm hay là bình minh. Nghĩa gốc của từ “Nguyên Đán” 元旦 là chỉ "Buổi sáng đầu tiên/Ngày đầu tiên (tức ngày mồng một) của một năm Nông lịch".[5][6][7]
Hiện nay, tại Trung Quốc, Tết âm lịch không còn được gọi là Tết Nguyên Đán nữa. Tại Trung Quốc đại lục, thời Dân quốc, năm thành lập Trung Hoa Dân quốc (năm 1912) được lấy làm mốc khởi thủy để định tên năm dương lịch. Năm thành lập Trung Hoa Dân quốc được coi là Trung Hoa Dân quốc năm thứ nhất. Năm sau Dân quốc năm thứ nhất, tức là Công nguyên năm 1913, là Dân quốc năm thứ hai, năm 1914 là Dân quốc năm thứ ba, năm 1915 là Dân quốc năm thứ tư... Lấy số năm Công nguyên trừ cho 1911 thì sẽ ra số năm Dân quốc tương ứng của năm Công nguyên đó.[8][9] Ngày 27 tháng 9 năm 1949, tại Hội nghị Toàn thể Khoá I Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc quyết định gọi tên các năm dương lịch theo thứ tự trong kỷ nguyên Công lịch, chính thức quy định ngày 1 tháng 1 dương lịch (tức Tết Tây) gọi là “Nguyên đán”, ngày mồng một tháng giêng nông lịch gọi là “Xuân tiết” (chữ Hán: 春節, pinyin: chūnjié) (nghĩa là lễ hội mùa xuân).[7][10]
Hai miền Nam Bắc Việt Nam từ sau năm 1975 đều cùng sử dụng múi giờ GMT+7 (trước đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+7, còn Việt Nam Cộng hoà sử dụng múi giờ GMT+8 giống như Trung Quốc), Trung Quốc thì sử dụng múi giờ GMT+8. Do Việt Nam và Trung Quốc sử dụng hai múi giờ khác nhau, âm lịch Việt Nam và âm lịch Trung Quốc cũng có đôi chút khác biệt, có lúc thì chỉ lệch có một giờ, có lúc thì lệch đến một tháng. Vì vậy mà có năm Việt Nam đón Tết cùng ngày với Trung Quốc, có năm lại đón Tết trước hoặc sau Trung Quốc.[11][12][13]
Văn hóa Đông Á – thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thừa") trong đó tiết khí quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán. Năm mới của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi nền văn minh lúa nước cổ đại.[14]
Theo Đại Nam nhất thống chí nhà Nguyễn [15], ở các huyện Bất Bạt và Mỹ Lương (Xứ Đoài) hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm. Theo một số nhà nghiên cứu[16] vào thời Hùng Vương, Tết Nguyên đán diễn ra vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch) khi tiết trời chuẩn bị se lạnh. Do vậy, Tết Đoan ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch rơi vào đúng giữa năm, tiết trời bắt đầu nắng nóng. Sau này, do ảnh hưởng từ Trung Quốc người Việt chuyển sang ăn Tết tháng Dần (tháng 1 âm lịch). Tuy nhiên ở vùng đất Tổ như Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc vẫn có những nơi ăn Tết hoặc kỷ niệm ngày đầu tháng 11 như: xông đất, mở cửa rừng, ăn những loại đất có khoáng chất vào người [17]…
“ | Thường năm, trước lễ Tết hai ngày, vua đi xe ngự-dụng, các quan tuỳ tùng đều mặc triều-phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích. Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-Củng, các bề tôi đều làm lễ, lễ rồi, xem các con hát múa trăm lối. Tối lại qua cung Động-Nhân, bái yết Tiên-Vương. Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ "Khu-Na" (nghĩa là đuổi tà ma quỷ mị). Dân-gian thì mở cửa đốt pháo tre, cỗ bàn trà rượu cúng tổ. Con trai con gái nhà nghèo, không có người mai dong để làm hôn-lễ, thì tự mình phối hợp với nhau. Ngày Nguyên-Đán, vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điện Vĩnh-Thọ, các tôn-tử (con cháu nhà vua), các quan cận-thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồi trên điện Thiên-An, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện đánh thổi các bài ca-nhạc trước đại-đình. Con cháu nhà vua và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong, các tôn-tử lên điện chầu và dự yến. Các quan nội-thần ngồi tiểu điện phía tây, các quan ngoại thần ngồi hai bên tả hữu vua, ăn tiệc, đến trưa lần lượt đi ra. Các thợ khéo làm một cái đài "Chúng-tiên" hai tầng ở trước điện, một lúc thì cái đài ấy làm xong, vàng ngọc sáng chói. Vua ngồi ăn trên đài ấy, các quan làm lễ, trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải-tán. Ngày mồng hai Tết, các quan đều làm lễ riêng ở nhà. Ngày mồng ba Tết, vua ngồi trên gác Đại-Hưng, xem các tôn-tử và các quan nội-cung đánh quả bóng (quả cầu thêu), hễ bắt được mà không rơi xuống đất là thắng. Quả bóng lấy gấm mà làm, bằng nắm tay đứa bé, có tua đeo lòng thòng đến hai mươi sợi. Mùng năm Tết, lễ khai-hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếu và du-ngoạn các vườn hoa. | ” |
— Tóm lược đoạn chép chi tiết của Lê Tắc về việc đón Tết của người Việt trong sách An Nam chí lược vào thế kỉ XIII.[18] |
Cũng trong sách An Nam chí lược của Lê Tắc, người Việt có phong tục khác biệt với Trung Quốc, dân thường hay vẽ mình, ưa uống rượu, dùng trầu cau đãi khách, hay ăn dưa mắm, những vật dưới biển và đã tổ chức lễ Tết. Ông còn ghi chép rằng dân Việt đón lễ Tết từ tháng giêng cho đến tháng 3 âm lịch, chơi nhiều trò chơi như đá bóng, đá cầu, đánh cờ, đấu vật và tổ chức tế lễ.[18] Một học giả khác là Lê Quý Đôn chép trong sách Kiến văn tiểu lục rằng nước Việt thời nhà Lý, đã thực hiện các lễ nghi quan trọng như lập Đàn phong vân để cầu mưa, lập đàn xã tắc để cầu cho quanh năm được mùa, dùng ngày lập xuân để làm lễ nghinh xuân. Lê Quý Đôn viết rằng thời Hồng Đức (1442-1497) lễ Nguyên đán là ngày lễ quan trọng bậc nhất, trăm quan phải vào chầu vua.[19]
Nhiều học giả đã và đang tìm câu trả lời cho nguồn gốc của tết qua nhiều thế hệ
Theo nhà nghiên cứu Toan Ánh, Tết Nguyên đán được xem là tiết lễ đầu tiên của năm mới, bắt đầu từ lúc giao thừa với lễ "trừ tịch". Lễ "trừ tịch" thường được tiến hành giữa giờ Hợi của ngày 30 hay nếu vào tháng thiếu thì vào ngày 29 tháng Chạp, và giờ Tý của ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới.
Theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng phân tích trong cuốn "Tập tục đời người", người Việt sử dụng nông lịch hay lịch âm được tính theo vòng quay của mặt trăng chung quanh trái đất, nhưng cũng tính được 24 tiết khí của trái đất với mặt trời, với 4 điểm gốc Xuân phân, Thu phân, Đông chí, Hạ chí. Tết bắt đầu từ ngày đầu tiên của tháng Giêng, khởi đầu của một năm mới, cũng là khởi đầu của một chu kỳ canh tác mới.[20]
Nhà sử học Trần Văn Giáp cho rằng có nhiều cách chia thời gian thành từng tháng, từng năm. Từ khởi thủy, mỗi dân tộc có một lối riêng, cách chia tháng, chia năm khác nhau. Theo nghiên cứu của Trần Văn Giáp, ngày “Tết Nguyên đán” ở Việt Nam có từ đầu thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Nguồn gốc chữ Tết và nghĩa chữ “Tết Nguyên đán” cũng được phổ biến từ thời đó.[21]
Theo sự tích "Bánh chưng bánh dày" thì người Việt đã ăn tết từ trước thời vua Hùng. Truyền thuyết về chàng Lang Liêu và bánh chưng cũng gợi ý việc tết có trước 1000 năm bắc thuộc. [22]
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2852 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, Tam Hoàng Ngũ Đế cũng chỉ là những nhân vật truyền thuyết.
Lịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.[23] Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Song những chi tiết này chỉ tìm thấy trong sách sử Trung Quốc, không có các nguồn tư liệu khác để kiểm chứng. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng).[24] Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1).[25] Từ năm 1976, cả hai miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.
Không chỉ có Trung Quốc và Việt Nam có Tết Nguyên Đán, mà một số quốc gia ở Đông Á cũng có Tết này. Chẳng hạn, đối với người Đài Loan, Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất, là những ngày mà mọi người ở Đài Loan quây quần bên nhau, cùng nhau đoàn viên sau một năm làm việc vất vả. Họ có lễ hội thả đèn lồng được tổ chức tại làng cổ Thập Phần vào dịp này.
Tết Nguyên Đán ở Hồng Kông cũng mang nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc nhưng cách đón Tết của người Hồng Kông vô cùng đặc sắc khi pha trộn giữa nền văn hóa truyền thống Phương Đông với nét văn hóa phóng khoáng, mới mẻ của phương Tây. Lúc chuẩn bị đón Tết, người dân Hồng Kông cũng lau dọn nhà cửa sạch sẽ, trang trí giấy đỏ. Trẻ em thì được lì xì, người lớn chúc tụng nhau một năm mới hạnh phúc[26].
Trong văn hóa Hàn Quốc, ngày lễ lớn nhất trong năm cũng chính là Tết Nguyên Đán, hay còn gọi là Seollal, ngày xua đuổi linh hồn xấu xa, điều xui xẻo và chào đón điều tốt lành. Tương tự như ở Việt Nam, Tết bắt đầu từ ngày 1/1 Âm lịch và thường kéo dài trong 3 ngày[26]. Tết của người dân bán đảo Triều Tiên kéo dài hàng tuần với nhiều phong tục truyền thống như dán hình động vật lên cửa để cầu may, xem tướng số, đón mặt trăng… Ngày lễ Seollal đã từng bị bãi bỏ trong khoảng thời gian dài, nhưng nay được phục hồi và công nhận là ngày lễ quốc gia ở Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc.
Tết Âm Lịch hay còn gọi là Tết Tháng Trắng, Tết Nguyên Đán là một trong những dịp lễ lớn nhất trong năm ở Mông Cổ. Đây là thời khắc báo hiệu mùa đông giá lạnh đã kết thúc, là dịp để gia đình sum vầy và thắt chặt mối quan hệ. Những ngày đầu năm, người Mông Cổ sẽ chỉ mặc trang phục dân tộc. Họ quay quần cùng nhau, trò truyện, vui đùa, trao đổi các món ăn và thưởng thức chúng.
Ở Nhật Bản mặc dù đã ngừng đón Tết theo âm lịch để chuyển sang đón Tết theo dương lịch (xem Tết Nhật Bản) từ năm 1873 trong thời kỳ Minh Trị duy tân, tuy nhiên ở một số địa phương phía nam Nhật Bản như Okinawa thì người dân vẫn đón Tết theo âm lịch và một số lễ hội Tết âm lịch vẫn được tổ chức ở một vài địa điểm. Nhưng Tết âm lịch không được coi là ngày lễ quốc gia của Nhật Bản nên mọi người vẫn phải đi làm, đi học[27].
Ở Singapore, người dân đón Tết truyền thống cùng thời điểm với Tết Nguyên đán của người Việt Nam. Những ngày Tết ở Singapore thường diễn ra với Lễ hội mùa xuân với 3 sự kiện nổi bật: Lễ hội Hoa đăng, Lễ hội Singapore River Hongbao và Lễ hội đường phố Chingay, kéo dài từ mùng 1 Tết cho đến 15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi lễ hội đều mang đậm chất xuân, vui tươi và có rất đông người dân tham gia.
Ở Malaysia, một phần tư dân số Malaysia là người Hoa kiều, vì vậy Tết Nguyên đán cũng là một dịp rất quan trọng với họ. Nó cũng được coi là kỳ nghỉ chính thức tại quốc gia này[26].
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới.[28] Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ. Dùng từ "Tết" thay cho từ "âm lịch" từ ngày 23/12-10/1 để mừng Tết đến.
Rằm tháng Chạp là lễ cúng rằm của tháng tổng kết cuối cùng của một năm, chuẩn bị cho lễ cúng ông Táo và lễ Giao Thừa đón năm mới. Chính vì vậy, nhiều gia đình Việt coi trọng lễ này hơn các lễ cúng rằm khác trong năm. Các lễ nghi và thủ tục cúng rằm tháng Chạp cũng được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng hơn. Rằm tháng Chạp vào ngày 15 tháng cuối cùng âm lịch, tức là chỉ còn 8 ngày nữa đến Tết ông Táo, và khoảng nửa tháng nữa là đến lễ cúng tất niên đón năm mới.
Công việc chính thức sửa soạn đón Tết của người Việt Nam thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo quân). Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ cúng gồm có hương (nhang), nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu được dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc trang trí thêm những thứ được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa. Trước ngày Tết, người Việt cũng chuẩn bị bánh chưng, bánh giầy còn ở miền nam thì loại bánh phổ biến là bánh tét và các món ăn thịnh soạn để dâng lên ông bà tổ tiên.[29]
Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng Ông Ba Mươi. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông vải[30]). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Một bát hương đặt chính giữa (có thể có hai bát hương nhỏ hơn đặt đối xứng hai bên). Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.
Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Vào dịp này, các địa phương thường tổ chức bắn pháo hoa trong thời lượng từ 10 phút đến 15 phút ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát.
Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến.[31]
Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵, tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官) gồm:
Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ trở lại Thiên đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.
Lễ vật gồm các chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, bánh giày, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã. Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay "ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu, nén hương (như Thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng thức, dốc lòng phù hộ.
Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánh kẹo, mứt Tết.
Khi cúng Giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình thường đứng trang nghiêm trước bàn thờ (không cần tất cả, chỉ cần gia chủ và vài ba người nữa) để khấn tổ tiên và xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới và cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái).
"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc Tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.
"Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc Tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục Đi sêu.
"Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy[32]. Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, về quê, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.
Đối với cộng đồng người Công giáo Việt Nam, ba ngày đầu năm họ thường tham dự thánh lễ ở nhà thờ với ý cầu nguyện cho từng ngày: mồng Một cầu nguyện bình an cho năm mới, mồng Hai cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ nếu còn sống và tưởng nhớ nếu đã qua đời, mồng Ba cầu nguyện thánh hóa cho công ăn, việc làm trong năm mới được tốt đẹp.
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.[33] Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.
Cách chọn tuổi xông đất:
Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới.[33] Thời xưa, chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà.
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần... Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.[33]
Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là:
Những việc làm này không biết có mang lại may mắn không nhưng nó phản ánh mặt xấu của văn hóa ứng xử của những người trong cuộc.
Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui chẳng hạn:
Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc Tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi).
Lì xì: người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ.
Theo truyền thuyết:
Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.[35]
Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này, người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, đặng phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.
Tục hóa vàng ngày mồng 4 hoặc mồng 5, không ít gia đình vẫn theo truyền thống cũ: làm cơm, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn.[36] Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian.[37] Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt.
Ngày mồng 7 tháng Giêng là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết. Trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ Khai hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.[38]
Chợ Tết là những phiên chợ có phiên họp chợ vào trước Tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho Tết Nguyên đán, như lá dong để gói bánh chưng, gạo nếp để gói bánh chưng hoặc nấu xôi, gà trống, hoa và các loại trái cây, dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng tổ tiên,...[39] Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba Tết (ngày 3 tháng 1 âm lịch). Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa Tết, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài,... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp Tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.
Hiện nay, nhiều chợ Gốm đã được mở vào ngày giáp Tết để phục vụ người dân.[40]
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.
Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê-ki-ma, táo, mãng cầu. Nói chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Cũng như người miền Bắc, mâm ngũ quả của người miền Nam không quy định khắt khe phải có những loại trái cây gì, thường thì gồm mãng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài.[41] Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu (kể cả khi đọc trại) như chuối - chúi nhủi, cam - cam chịu, lê - lê lết, sầu riêng - ưu buồn, bom (táo), lựu - lựu đạn... và không chọn trái có vị đắng, cay.
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét.[42] Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai. Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ".
Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi".
Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Hán (Tâm - 心, Phúc - 福, Đức - 德...).
Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Hán (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.[43] Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:
Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (對) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.
Ngoài ra, ngày nay vẫn còn tồn tại tục "xin chữ" lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ (chữ Latinh), với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội.[44] Những năm gần đây, để chấn chỉnh tình trạng lộn xộn và kinh doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội đã có những kỳ thi sát hạch các ông đồ trước Tết.[45]
Thư viện ảnh một số cây và hoa thường thấy trong những ngày Tết (nhấn hiện để xem) |
---|
—Sự tích hoa đào ngày Tết
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet, hoa đồng tiền... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày Tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc.[46]
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.[47]
Hoa mai, với miền Nam nước Việt, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa mai đơm bông nảy mầm mỗi dịp Xuân về Tết đến. Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.[48]
Bên cạnh những cây hoa Tết, không thể không nhắc đến cây quất — loại cây thường được bày bố và trang trí tại phòng khách trong những ngày Tết. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.[49]
Thư viện các món ăn đặc trưng trong những ngày Tết (nhấn hiện để xem) |
---|
|
Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn có:
Tết, và các tục lệ, được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Việt Nam:
Tết cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ:
|
|
Tết về, nhớ bánh chưng xanh,
Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh lợn gà. Nhớ cành đào thắm đầy hoa, Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang. Nhớ ngũ vị, nhớ chè lam, Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành. Nhớ tam cúc đẹt: Nhớ... mình! Nhớ cân mứt lạc, nhớ khoanh giò bì... (Bàng Bá Lân - Tết xưa) |
Hay câu đối Tết như:
Dịp Tết là dịp vui vẻ nên không thể thiếu âm nhạc. Trong Tân nhạc Việt Nam có rất nhiều ca khúc sáng tác về chủ đề Tết và mùa Xuân. Trước đây có nhiều ca khúc xưa nổi tiếng như "Ly rượu mừng", "Đón xuân" của Phạm Đình Chương, "Xuân và tuổi trẻ" của La Hối, "Xuân họp mặt" của Văn Phụng, "Xuân đã về" của Minh Kỳ, "Anh cho em mùa xuân" của Nguyễn Hiền, "Mùa xuân đầu tiên" của Tuấn Khanh,...[58]. Trong thời chiến tranh Việt Nam, có những ca khúc hùng ca cho người chiến sĩ, nung đúc tinh thần họ như bài "Xuân chiến khu" của Xuân Hồng ở miền Bắc, nhưng cũng có những ca khúc buồn nói về sự xa cách như "Xuân này con không về" của bộ ba nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân ở miền Nam. Thập niên 90, nhiều ca khúc vui tươi đã được phổ biến như "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao, "Thì thầm mùa xuân" của Ngọc Châu, "Hoa cỏ mùa xuân" của Bảo Chấn, "Lắng nghe mùa xuân về" của Dương Thụ, "Ngày Tết quê em" của Từ Huy, "Mùa xuân ơi" của Nguyễn Ngọc Thiện, "Đoản ca xuân" của Thanh Sơn, "Điệp khúc mùa xuân" của Quốc Dũng,...[59]
Nhưng từ năm 2000 trở lại đây thiếu vắng những bài nhạc Xuân mới tạo được sự nổi tiếng mà thường là các ca sĩ chỉ hát nhạc cũ và phối âm lại,[60] nhưng cũng có ca khúc đạt mức phổ biến cao như "Ngày xuân long phụng sum vầy" của Quang Huy (2011).[59] "Khúc giao mùa" (2002) của Huy Tuấn với tiếng hát Mỹ Linh thành công đến mức cô được các phương tiện truyền thông vinh danh là "Nữ hoàng nhạc xuân".[61] Đến những năm 2010, dưới sự phổ biến của YouTube và các nền tảng phát nhạc trực tuyến, những bài hát nhạc Tết thông thường là sản phẩm quảng bá hợp tác cùng với các nhãn hàng. Các bài hát nhạc Tết trong giai đoạn này đạt được những thành công lớn về mặt thương mại có thể kể đến:
Ngoài ra, Tết cũng là dịp để các nghệ sĩ thực hiện những show ca múa nhạc Tết và hài kịch phục vụ người ái mộ [62]. Các hãng sản xuất phim cũng có phim Tết đặc biệt.
Cụm từ "Tết" được nhắc đến rất nhiều lần trong bài hát "Ngày Tết quê em" của Từ Huy:
Và bài hát "Mùa xuân ơi" của Nguyễn Ngọc Thiện nhắc nhiều lần cụm từ "Xuân xuân ơi":
Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.[66]
Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền, đấu vật, đánh còn, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu... tùy theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày Tết với những phần "lễ" và phần "hội" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Từ năm 2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Đường hoa Nguyễn Huệ và Đường sách Tết tại phường Bến Nghé, Quận 1 và Hội hoa Xuân thường niên tại công viên Tao Đàn[69][70] và từ năm 2009, tại Hà Nội có Lễ hội phố hoa Hà Nội tại phường Tràng Tiền và Lý Thái Tổ thuộc quận Hoàn Kiếm để trang hoàng hoa cho khách thưởng ngoạn, tuy không tổ chức hàng năm và phố Ông đồ ở Văn Miếu.[71] Từ năm 2007, tại phường 7 thuộc địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa Hùng Vương tổ chức hàng năm.[72] Ngoài ra còn Đường hoa Bạch Đằng tại Đà Nẵng, Đường hoa Trấn Biên tại Biên Hòa, Đường hoa Bạch Đằng tại Bình Dương, Đường hoa 16/4 tại Ninh Thuận, Đường hoa Phú Mỹ Hưng tại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh.[73]
Ngoài hội Tết, nhiều địa phương còn tổ chức các lễ hội mùa Xuân đặc biệt, chẳng hạn như:
Tại Hà Nội, vào ngày mùng 5 Tết, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc địa phận phường Quang Trung, quận Đống Đa và vào ngày mùng 6 là bắt đầu lễ hội Cổ Loa tại xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, lễ hội chùa Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội đền Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh.
Các nơi khác có Chợ Âm Dương mùng 4 ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và Chợ Viềng mùng 7 tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản và tại thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, Hội xuân Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Tại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm 2004 lễ hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát.[74]
Tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Chuộng tổ chức vào mùng 6 Tết, người dân đến mua bán một số sản vật nông nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may.
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các miền với niềm tin chính để giữ điều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:
Miền Bắc
Miền Trung
Người Việt sống ở nước ngoài nếu không có điều kiện về Việt Nam trong dịp Tết cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa Việt. Nhiều nơi có đông người Việt sinh sống như tại Mỹ, Úc, Pháp, Nga, Đức... người Việt sinh sống tại đây ăn Tết với bánh chưng gói và bán sẵn cũng như các món ăn được đưa từ Việt Nam sang như nước mắm Phan Thiết, cho đến củ tỏi, củ hành, rau húng, rau thơm... Nhiều gia đình cũng lập bàn thờ Gia tiên, bàn thờ cũng có mâm ngũ quả, bánh chưng, mứt Tết, hương trầm, rượu, kim ngân..., có gia đình treo cả câu đối, và một lọ hoa tươi giống như đón Tết cổ truyền tại Việt Nam.[81]
Nhiều nơi, cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa Phật giáo, các giáo xứ Công giáo có tổ chức Hội Tết và ca nhạc văn nghệ Tết. Sứ quán Việt Nam và các lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài cũng có tổ chức các hoạt động vui Tết đón xuân cho kiều bào như các buổi tiệc nhỏ hay văn nghệ Tết, như tại Thái Lan, Canada [81].... Các khu thương xá của người Việt, các khu chợ Việt như tại Little Saigon ở tiểu bang California, Hackney (hay được gọi là "khu Việt Nam" tại Luân Đôn), Cabramatta (còn gọi là Saigonmatta) ở Sydney, Úc... cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, lá dong tươi để gói bánh chưng, bánh tét, gạo nếp, xôi gấc, dừa khô, măng khô... được chuyển từ Việt Nam sang.[82] Chợ hoa cũng có bán cành đào, cành mai, dưa hấu nhập từ các nước châu Á sang để trưng bày trong nhà.
Tại Mỹ, trước Tết Nguyên đán, kiều bào và du học sinh thường kết hợp tổ chức lễ hội mừng Tết lớn cho cộng đồng người Việt và cả cộng đồng người bản xứ. Đặc biệt hơn ở Việt Nam là nơi đây, vào ngày Tết được quyền đốt pháo nên các khu chợ Việt như chợ Lion, khu Little Saigon tràn ngập xác pháo giữa đêm giao thừa cho đến trọn ngày mồng 1 Tết.[83] Hàng năm, vào ngày Tết, đều có các cuộc diễn hành Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, với các xe hoa và đoàn múa, lớn nhất là tại San Jose do Hội Diễn hành Xuân (Vietnamese Spring Festival) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức.[83] Hội chợ Tết cũng diễn ra khắp nơi với các phần đốt pháo, múa lân, ca nhạc văn nghệ, tái hiện các làng quê Việt xưa, thi đố vui để học, thi hoa hậu áo dài, thi đấu võ, thi thiếu nhi tài năng, thi gói bánh chưng bánh tét,...[83][84] Như tại Garden Grove, California, công viên Garden Grove Park và trường Bolsa Grande High School hiện nay là địa điểm tổ chức "Hội Tết Sinh viên" hằng năm, với hàng trăm ngàn người tham dự, và do Tổng hội Sinh viên Việt Nam Nam Cali (UVSA) tổ chức liên tục từ năm 1982 đến nay.[85] Hội Tết Sinh viên năm 2013 có chủ đề là "Xuân quê hương - Việt Nam anh hùng" và đã được tổ chức trong 3 ngày 08-09-10 tháng 2 năm 2013.[86][87] Hội Tết Sinh viên năm 2014 với chủ đề "Mùa Xuân Mới" sẽ được tổ chức trong ba ngày 7 đến 9 tháng 2 năm 2014 tại Orange County Fair & Event Center.[88] Tại bang California, vào cuối tháng 9/2022, ông Gavin Newsom, Thống đốc bang California, đã ký luật chính thức công nhận Tết Nguyên đán là một ngày lễ của bang[89].
Tại Úc, hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đều có các cuộc diễn hành Tết và Hội Tết của cộng đồng người Việt tại khắp nơi, mang đậm bản sắc văn hóa Việt, như tại Sydney, Melbourne với hàng trăm ngàn người tham dự [90]. Các hội Tết cũng có các món ăn Việt, những trò chơi dân gian, những gian hàng chợ Tết, bắn pháo hoa, múa lân, tái hiện văn hóa Việt xưa...[90]
Đối với nhiều kiều bào có dịp về Việt Nam đón Tết Nguyên Đán cũng được chính quyền của các địa phương đón tiếp nồng hậu. Nhiều buổi họp mặt kiều bào có sự tham dự của đại diện lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và lãnh đạo Sở ban ngành cấp địa phương[91].
Trong bảng này tính các năm từ 1984 đến 2091. Múi giờ được sử dụng để tính là giờ Hà Nội (UTC+7).[92]
Chi | Ngày tháng Dương lịch | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tý | 2 tháng 2 năm 1984 (Giáp Tý) | 19 tháng 2 năm 1996 (Bính Tý) | 7 tháng 2 năm 2008 (Mậu Tý) | 25 tháng 1 năm 2020 (Canh Tý) | 11 tháng 2 năm 2032 (Nhâm Tý) | 30 tháng 1 năm 2044 (Giáp Tý) | 15 tháng 2 năm 2056 (Bính Tý) | 3 tháng 2 năm 2068 (Mậu Tý) | 22 tháng 1 năm 2080 (Canh Tý) |
Sửu | 21 tháng 1 năm 1985 (Ất Sửu) | 7 tháng 2 năm 1997 (Đinh Sửu) | 26 tháng 1 năm 2009 (Kỷ Sửu) | 12 tháng 2 năm 2021 (Tân Sửu) | 31 tháng 1 năm 2033 (Quý Sửu) | 17 tháng 2 năm 2045 (Ất Sửu) | 4 tháng 2 năm 2057 (Đinh Sửu) | 23 tháng 1 năm 2069 (Kỷ Sửu) | 9 tháng 2 năm 2081 (Tân Sửu) |
Dần | 9 tháng 2 năm 1986 (Bính Dần) | 28 tháng 1 năm 1998 (Mậu Dần) | 14 tháng 2 năm 2010 (Canh Dần) | 1 tháng 2 năm 2022 (Nhâm Dần) | 19 tháng 2 năm 2034 (Giáp Dần) | 6 tháng 2 năm 2046 (Bính Dần) | 24 tháng 1 năm 2058 (Mậu Dần) | 11 tháng 2 năm 2070 (Canh Dần) | 29 tháng 1 năm 2082 (Nhâm Dần) |
Mão | 29 tháng 1 năm 1987 (Đinh Mão) | 16 tháng 2 năm 1999 (Kỷ Mão) | 3 tháng 2 năm 2011 (Tân Mão) | 22 tháng 1 năm 2023 (Quý Mão) | 8 tháng 2 năm 2035 (Ất Mão) | 26 tháng 1 năm 2047 (Đinh Mão) | 12 tháng 2 năm 2059 (Kỷ Mão) | 31 tháng 1 năm 2071 (Tân Mão) | 17 tháng 2 năm 2083 (Quý Mão) |
Thìn | 17 tháng 2 năm 1988 (Mậu Thìn) | 5 tháng 2 năm 2000 (Canh Thìn) | 23 tháng 1 năm 2012 (Nhâm Thìn) | 10 tháng 2 năm 2024 (Giáp Thìn) | 28 tháng 1 năm 2036 (Bính Thìn) | 14 tháng 2 năm 2048 (Mậu Thìn) | 2 tháng 2 năm 2060 (Canh Thìn) | 19 tháng 2 năm 2072 (Nhâm Thìn) | 6 tháng 2 năm 2084 (Giáp Thìn) |
Tỵ | 6 tháng 2 năm 1989 (Kỷ Tỵ) | 24 tháng 1 năm 2001 (Tân Tỵ) | 10 tháng 2 năm 2013 (Quý Tỵ) | 29 tháng 1 năm 2025 (Ất Tỵ) | 15 tháng 2 năm 2037 (Đinh Tỵ) | 2 tháng 2 năm 2049 (Kỷ Tỵ) | 21 tháng 1 năm 2061 (Tân Tỵ) | 7 tháng 2 năm 2073 (Quý Tỵ) | 26 tháng 1 năm 2085 (Ất Tỵ) |
Ngọ | 27 tháng 1 năm 1990 (Canh Ngọ) | 12 tháng 2 năm 2002 (Nhâm Ngọ) | 31 tháng 1 năm 2014 (Giáp Ngọ) | 17 tháng 2 năm 2026 (Bính Ngọ) | 4 tháng 2 năm 2038 (Mậu Ngọ) | 23 tháng 1 năm 2050 (Canh Ngọ) | 9 tháng 2 năm 2062 (Nhâm Ngọ) | 27 tháng 1 năm 2074 (Giáp Ngọ) | 14 tháng 2 năm 2086 (Bính Ngọ) |
Mùi | 15 tháng 2 năm 1991 (Tân Mùi) | 1 tháng 2 năm 2003 (Quý Mùi) | 19 tháng 2 năm 2015 (Ất Mùi) | 6 tháng 2 năm 2027 (Đinh Mùi) | 24 tháng 1 năm 2039 (Kỷ Mùi) | 11 tháng 2 năm 2051 (Tân Mùi) | 29 tháng 1 năm 2063 (Quý Mùi) | 15 tháng 2 năm 2075 (Ất Mùi) | 3 tháng 2 năm 2087 (Đinh Mùi) |
Thân | 4 tháng 2 năm 1992 (Nhâm Thân) | 22 tháng 1 năm 2004 (Giáp Thân) | 8 tháng 2 năm 2016 (Bính Thân) | 26 tháng 1 năm 2028 (Mậu Thân) | 12 tháng 2 năm 2040 (Canh Thân) | 1 tháng 2 năm 2052 (Nhâm Thân) | 17 tháng 2 năm 2064 (Giáp Thân) | 5 tháng 2 năm 2076 (Bính Thân) | 24 tháng 1 năm 2088 (Mậu Thân) |
Dậu | 23 tháng 1 năm 1993 (Quý Dậu) | 9 tháng 2 năm 2005 (Ất Dậu) | 28 tháng 1 năm 2017 (Đinh Dậu) | 13 tháng 2 năm 2029 (Kỷ Dậu) | 1 tháng 2 năm 2041 (Tân Dậu) | 18 tháng 2 năm 2053 (Quý Dậu) | 5 tháng 2 năm 2065 (Ất Dậu) | 24 tháng 1 năm 2077 (Đinh Dậu) | 10 tháng 2 năm 2089 (Kỷ Dậu) |
Tuất | 10 tháng 2 năm 1994 (Giáp Tuất) | 29 tháng 1 năm 2006 (Bính Tuất) | 16 tháng 2 năm 2018 (Mậu Tuất) | 2 tháng 2 năm 2030 (Canh Tuất) | 22 tháng 1 năm 2042 (Nhâm Tuất) | 8 tháng 2 năm 2054 (Giáp Tuất) | 26 tháng 1 năm 2066 (Bính Tuất) | 12 tháng 2 năm 2078 (Mậu Tuất) | 30 tháng 1 năm 2090 (Canh Tuất) |
Hợi | 31 tháng 1 năm 1995 (Ất Hợi) | 17 tháng 2 năm 2007 (Đinh Hợi) | 5 tháng 2 năm 2019 (Kỷ Hợi) | 23 tháng 1 năm 2031 (Tân Hợi) | 10 tháng 2 năm 2043 (Quý Hợi) | 28 tháng 1 năm 2055 (Ất Hợi) | 14 tháng 2 năm 2067 (Đinh Hợi) | 2 tháng 2 năm 2079 (Kỷ Hợi) | 18 tháng 2 năm 2091 (Tân Hợi) |
Theo quy luật của bảng trên, cứ 2 hoặc 3 năm thì có một năm Tết rơi vào tháng 1, còn lại là tháng 2.
Những năm gần đây, trên các diễn đàn đã xuất hiện ý tưởng gộp Tết và được bàn tán, tranh luận nhiều. Năm 2005, Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nêu ra đề xuất "Nên ăn Tết Ta theo lịch Tây", ông cho rằng Nên nghỉ Tết dương lịch với thời gian như nghỉ Tết âm lịch hiện nay (từ 26/12 đến 4/1), và nghỉ Tết âm lịch như nghỉ Tết dương lịch hiện nay (khoảng 2 ngày là đủ). Tất cả các hoạt động chào mừng năm mới, lễ hội truyền thống... vẫn tiếp tục gìn giữ và phát huy.[93]
Giáo sư này đã nêu lên những bất lợi của Tết Nguyên Đán rằng nó sẽ làm mất cơ hội nắm bắt ngay thời cơ kinh doanh, giao thương với nước ngoài và mất thời giờ của nông dân lo chăm sóc lúa đông-xuân, vụ lúa tiềm năng cao nhất trong năm. Gượng ép thời khóa biểu học tập và thi học kỳ của sinh viên học sinh, làm cho họ mất cả hai tuần lễ học hành; dân chúng nhậu nhẹt, bài bạc dưới nhiều hình thức, rất tốn kém tiền của và thời gian học tập, tổn hại sức khỏe và tính mạng và lãng phí ngày làm việc trong khi quốc tế nghỉ Tết Tây. Giáo sư cho rằng Việt Nam nên gộp như vậy để bắt kịp thế giới, học tập theo gương của nước Nhật Bản (Tết Nhật Bản), thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc.
Vào những ngày đầu năm, vấn đề này lại được báo chí đưa ra bàn luận, với các ý kiến ủng hộ và phản đối trái chiều nhau [94].
Những người ủng hộ cho rằng ăn Tết Ta như hiện nay gây rối loạn kế hoạch sản xuất ở các cơ sở công nghiệp. Nếu tiếp tục thì sẽ bị lạc bước, lỡ nhịp với thế giới, nhất là khi được làm việc với người phương Tây vì người Tây không ăn Tết ta. Tết Ta ngày càng trở nên nhàm chán, Nếu ăn Tết Nguyên Đán theo Dương lịch thì sẽ hội nhập dễ, tiết kiệm thì giờ dành cho Tết, thuận tiện hơn vì chỉ còn một cái Tết [95] Bỏ Tết Nguyên Đán thì tránh được những thủ tục phiền hà, tốn kém và sẽ tiện đủ đường[96]. Nhiều bạn trẻ, nhất là phái nữ cũng phản đối Tết truyền thống vì cho rằng khi về quê, về làng có quá nhiều nghi lễ truyền thống nên cảm thấy không thoải mái nên có xu hướng đi nước ngoài du lịch khi Tết đến.
Trái lại, có rất nhiều ý kiến phản đối gay gắt đề xuất này, bao gồm bạn đọc các báo, nghệ sĩ, nhà khoa học... Những người phản đối đã cho rằng nếu thay đổi như vậy thì sẽ gây nên sự mất mát rất lớn về văn hóa thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc bởi Tết Nguyên Đán đã ăn sâu trong tâm thức của người dân. Dịp Tết chính là dịp để người thân sum họp sau một năm xa cách. Dịp Tết là dịp để gìn giữ, phát huy văn hóa cổ truyền của dân tộc.[97] Giáo sư Sử học Lê Văn Lan đã chỉ ra rằng Tết Dương lịch chỉ là "món ăn thêm", còn Tết Âm lịch thì đã đi sâu vào máu thịt.[98] Ca sĩ Mỹ Linh đã nói rằng ăn Tết Ta theo Dương lịch là "thảm họa". Mỹ Linh đã chỉ ra rằng Tết Nguyên đán theo cách tổ chức bao nhiêu đời này là những giây phút thiêng liêng cho sự khởi đầu một năm mới...Chứng tỏ rằng truyền thống dân tộc bao đời vẫn luôn được duy trì trong tâm trí mỗi con người Việt[99].
Tuy nhiên các thảo luận nói trên đều mới là ý tưởng cá nhân. Trong chương trình làm việc của cơ quan quyền lực nhà nước, gồm Quốc hội và Chính phủ, là nơi chịu trách nhiệm đưa ra quyết định, chưa hề có dự định nào liên quan đến thay đổi việc ăn Tết cổ truyền của dân tộc. Đại diện của Bộ Tư pháp cũng xác nhận rằng hiện chưa có chỉ đạo nào về việc nghiên cứu vấn đề gộp Tết để sửa đổi quy định pháp luật liên quan.
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết lần đầu tiên công nhận Tết Nguyên Đán trở thành ngày nghỉ lễ của Liên Hợp Quốc và khuyến khích các cơ quan Liên Hợp Quốc không tổ chức họp vào ngày đầu tiên của năm mới âm lịch vào ngày 22/12/2023. [100]
|ngày truy cập=
(trợ giúp)[liên kết hỏng]
|url=
(trợ giúp). vietnamnet.vn. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.[liên kết hỏng]
|url=
(trợ giúp). vietnamnet.vn. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.[liên kết hỏng]
|url=
(trợ giúp).
|url=
(trợ giúp). Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.[liên kết hỏng]
|url=
(trợ giúp). Truy cập 26 tháng 6 năm 2023.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)