Ian Wright

Ian Wright
Wright năm 2022
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Ian Edward Wright
Chiều cao 1,75 m (5 ft 9 in)
Vị trí Tiền đạo
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1985–1991 Crystal Palace 225 (90)
1991–1998 Arsenal 221 (179)
1998–1999 West Ham United 22 (9)
1999Nottingham Forest (mượn) 10 (5)
1999–2000 Celtic 8 (3)
2000 Burnley 15 (4)
Tổng cộng 501 (239)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1989–1992 Anh B 3 (0)
1991–1998 Anh 33 (9)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Ian Edward Wright MBE (Sinh ngày 3 tháng 11 năm 1963, Woolwich, London) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh, một người nổi tiếng trên truyền hìnhradio. Ông hiện đang là bình luận viên của BBC SportITV Sport.

Là cầu thủ giành được nhiều thành công với các câu lạc bộ của London như Crystal PalaceArsenal, trong 7 năm tại Arsenal, ông đã một lần vô địch Premier League, 2 cúp FA, 1 cúp liên đoàn và một lần nâng cao danh hiệu UEFA Cup Winners' Cup.[1] Ông đã thi đấu tổng cộng 581 trận, ghi 387 bàn thắng cho 7 câu lạc bộ ở AnhScotland và 33 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Anh.[1]

Ngoài ra, Wright còn từng thi đấu tại Premier League cho West Ham UnitedNottingham Forest, tại Scottish Premier League cho câu lạc bộ Celtic và ở giải hạng nhì Anh cho Burnley.

Sau khi giã từ sân cỏ, ông hoạt động tích cực trong lĩnh vực truyền thông, chủ yếu trong các chương trình truyền hình và radio liên quan đến bóng đá. Con trai cả của ông Shaun Wright-Phillips và người con thứ hai Bradley Wright-Phillips đều là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.[1]

Tuổi thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Wright đến với bóng đá chuyên nghiệp tương đối muộn. Mặc dù đã từng thử việc tại Southend UnitedBrighton thời còn niên thiếu,[1] ông vẫn không thể có được một hợp đồng bóng đá chuyên nghiệp và chỉ chơi cho các đội không chuyên và nghiệp dư.[1]

Ông từng phải ngồi trong Nhà giam Chelmsford 2 tuần do lái xe mà không nộp thuế hay có bảo hiểm.[2]

Sự nghiệp cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Crystal Palace

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan sát viên của Crystal Palace, Peter Prentice, tình cờ được xem Wright đá cho Dulwich Hamlet và đã mời ông về thử việc tại sân Selhurst Park.[1] Sau khi gây ấn tượng với huấn luyện viên Steve Coppell,[1] ông đã ký hợp đồng chuyên nghiệp với Crystal Palace vào tháng 8 năm 1985, chỉ 3 tháng trước khi ông tròn 22 tuổi.[3]

Ông nhanh chóng tạo dấu ấn ngay trong mùa giải đầu tiên khi ghi 9 bàn thắng để trở thành cây săn bàn thứ hai của Palace. Sau khi tiền đạo Mark Bright chuyển đến Palace vào năm 1986, họ sớm trở thành một cặp đôi tiền đạo ăn ý và đã ghi được rất nhiều bàn thắng giúp câu lạc bộ giành vé đá playoffs và lên chơi giải hạng nhất năm 1989.[4] cũng trong mùa giải đấy, Wright đã có 24 lần lập công tại giải hạng nhì và ghi tổng cộng 33 bàn ở mọi giải đấu.[5]

Wright được gọi lên đội tuyển Anh B vào tháng 12 năm 1989 nhưng chấn thương mà ông gặp phải đã làm ảnh hưởng đến phong độ của ông tại giải hạng nhất.[4] Dẫu vậy, sau khi hồi phục, ông đã có một màn ra mắt ấn tượng khi đóng vai trò một 'siêu dự bị', trong trận chung kết cúp FA 1990 gặp Manchester United.[6] Anh đã cân bằng tỉ số cho Palace chỉ sau vài phút có mặt trên sân và buộc hai đội phải đá hiệp phụ. Mặc dù Wright đã ghi bàn giúp Palace vươn lên dẫn trước[6] nhưng trận đấu vẫn kết thúc với tỉ số 3-3[1] và Palace sau đó vẫn thất bại 1–0 trong trận đấu lại.[6]

Ở mùa giải kế tiếp, ông đã đạt được cột mốc 100 bàn thắng cho Crystal Palace[1][4] và lập cú đúp giúp Palace đánh bại Everton để giành Zenith Data Systems Cup trên sân Wembley.[1] Wright trở nên nổi tiếng với khả năng săn bàn nổi bật của mình khi ông lập một hat-trick chỉ trong 18 phút trong vòng đấu áp chót gặp câu lạc bộ Wimbledon trên sân khách ở mùa giải 1990–91.[4]

Wright đã có 253 lần góp mặt trong đội hình xuất phát và 24 lần vào sân thay người trong 6 mùa giải đá cho Crystal Palace. Với 117 bàn thắng trên tất cả các giải đấu,[1] ông đứng thứ 3 trong danh sách các cây săn bàn của câu lạc bộ[7] và là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Palace sau chiến tranh[4] Năm 2005, ông được cổ động viên Crystal Palace bầu chọn vào đội hình xuất sắc nhất (Centenary XI) nhân kỉ niệm 100 năm thành lập câu lạc bộ.[8]

Wright chuyển đến Arsenal vào tháng 9 năm 1991 với mức giá 2,5 triệu £,[1] phí chuyển nhượng kỉ lục của câu lạc bộ vào thời điểm đó.[1] Ông ghi bàn thắng đầu tiên trong trận ra mắt gặp Leicester City tại cúp liên đoàn,[1] và lập hat-trick trong trận đấu đầu tại giải gặp Southampton.[1] Ông giành giải thưởng chiếc giày vàng ngay trong mùa giải đầu tiên với 29 bàn thắng[9]. Ông đã ghi một hat-trick trong vòng đấu cuối của mùa giải gặp Southampton;[10] Bàn thắng thứ ba của ông cũng là bàn thắng cuối cùng được ghi ở giải hạng nhất cũ.[cần dẫn nguồn]

Wright trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của câu lạc bộ trong 6 mùa giải liên tiếp[3] và đóng vai trò quan trọng trong thành công của câu lạc bô trong thập niên 90 khi giành cú đúp cúp FA và cúp liên đoàn năm 1993;[3] Ông ghi bàn trong cả trận chung kết cúp FA và trận đấu lại gặp Sheffield Wednesday.[1] Wright còn giúp Arsenal lọt đến trận chung kết UEFA Cup Winners' Cup 1994,[1] Mặc dù ông bị treo giò trận chung kết nhưng Arsenal vẫn đánh bại Parma với tỉ số 1–0.[1] Mùa giải đó họ kết thúc ở vị trí thứ 4 tại Premier League.[1]

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Số trận và bàn thắng ghi cho câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu[11]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia[a] League cup[b] Châu Âu Giải khác Tổng cộng
Giải đấu Số trận Bàn thắng Số trận àn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng
Crystal Palace 1985–86 Second Division 32 9 1 0 1 0 2[c] 0 36 9
1986–87 Second Division 38 9 1 0 4 1 1[c] 0 44 10
1987–88 Second Division 41 20 1 0 3 3 1[c] 0 46 23
1988–89 Second Division 42 24 1 0 2 1 9[d] 8 54 33
1989–90 First Division 26 8 4 2 4 1 3[c] 2 37 13
1990–91 First Division 38 15 3 1 5 3 6[c] 6 52 25
1991–92 First Division 8 5 8 5
Tổng cộng 225 90 11 3 19 9 22 16 277 118
Arsenal 1991–92 First Division 30 24 0 0 3 2 0 0 33 26
1992–93 Premier League 31 15 7 10 8 5 46 30
1993–94 Premier League 39 23 3 1 4 6 6[e] 4 1[f] 1 53 35
1994–95 Premier League 31 18 2 0 3 3 9[e] 9 2[g] 0 47 30
1995–96 Premier League 31 15 2 1 7 7 40 23
1996–97 Premier League 35 23 1 0 3 5 2[h] 2 41 30
1997–98 Premier League 24 10 1 0 1 1 2[h] 0 28 11
Tổng cộng 221 128 16 12 29 29 19 15 3 1 288 185
West Ham United 1998–99 Premier League 22 9 1 0 2 0 25 9
1999–2000 Premier League 0 0 0 0 1[i] 0 1 0
Tổng cộng 22 9 1 0 2 0 1 0 26 9
Nottingham Forest (mượn) 1999–2000 First Division 10 5 10 5
Celtic 1999–2000 Scottish Premier League 8 3 1 0 1 0 0 0 10 3
Burnley 1999–2000 Second Division 15 4 15 4
Tổng cộng sự nghiệp 501 239 29 15 51 38 20 15 25 17 626 324
  1. ^ Bao gồm FA Cup, Scottish Cup
  2. ^ Bao gồm League Cup, Scottish League Cup
  3. ^ a b c d e Số trận ở Full Members' Cup
  4. ^ Năm trận và năm bàn thắng ở Full Members' Cup, bốn trận và ba bàn thắng Second Division play-offs
  5. ^ a b Số trận ở European Cup Winners' Cup
  6. ^ Số trận ở FA Charity Shield
  7. ^ Số trận ở European Super Cup
  8. ^ a b Số trận ở UEFA Cup
  9. ^ Số trận ở UEFA Intertoto Cup

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Crystal Palace[1]

Arsenal[12]

West Ham United[15][16]

Burnley[17][18]


Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t “Ian Wright - Football Legend Profile”. Talkfootball.co.uk. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2010.
  2. ^ Odell, Michael (8 tháng 5 năm 2007). “Ian Wright”. The Guardian. London.
  3. ^ a b c 4 mins 30 seconds (ngày 15 tháng 7 năm 2008). “Gunners' Greatest Players - 4. Ian Wright | News Archive | News”. Arsenal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  4. ^ a b c d e “Crystal Palace | Club | Palace Legends | Palace Legends | Ian Wright”. Cpfc.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  5. ^ Holmesdale Online www.holmesdale.net (ngày 26 tháng 7 năm 2009). “1988/89 revisited - Crystal Palace FC Supporters' Website - The Holmesdale Online”. Holmesdale.net. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2012.
  6. ^ a b c “FA Cup Final 1990”. Fa-cupfinals.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  7. ^ “Goalscorers”. Cpfc.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
  8. ^ “Player of the Year Awards”. Cpfc.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  9. ^ “English League Leading Goalscorers 1889-2007”. RSSSF. 14/06/2007. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate=|date= (trợ giúp)
  10. ^ “Ian Wright | Arsenal Player Database | History”. Arsenal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  11. ^ “Player Details: Ian Wright”. The English National Football Archive. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2018.
  12. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Feature
  13. ^ “Ian Wright: Overview”. Premier League. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2018.
  14. ^ “Masterful Milan march on”. UEFA.com.
  15. ^ “Intertoto win gives Hammers Uefa spot”. BBC.co.uk.
  16. ^ “Who is the best player to have played for West Ham and Arsenal?”. Newham Recorder.co.uk. 2 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2018.
  17. ^ “BBC News | FOOTBALL | Wright hangs up his boots”. news.bbc.co.uk.
  18. ^ “Late charge takes Clarets up”. BB Sport.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Jujutsu Kaisen chương 239: Kẻ sống sót ngốc nghếch
Jujutsu Kaisen chương 239: Kẻ sống sót ngốc nghếch
Cô nàng cáu giận Kenjaku vì tất cả những gì xảy ra trong Tử Diệt Hồi Du. Cô tự hỏi rằng liệu có quá tàn nhẫn không khi cho bọn họ sống lại bằng cách biến họ thành chú vật
Danh sách những vật dụng cần chuẩn bị khi đi leo núi (phần 1)
Danh sách những vật dụng cần chuẩn bị khi đi leo núi (phần 1)
Tôi sẽ đưa ra danh mục những nhóm đồ dùng lớn, sau đó tùy vào từng tình huống mà tôi sẽ đưa ra tùy chọn tương ứng với tình huống đó
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Tira chị em sinh 3 của Tina Tia , khác vs 2 chị em bị rung động bởi người khác thì Tira luôn giữ vững lập trường và trung thành tuyệt đối đối vs tổ chức sát thủ của mình
Download anime Azur Lane Vietsub
Download anime Azur Lane Vietsub
Một hải quân kỳ lạ với một sức mạnh lớn dưới cái tên là Siren đã bất ngờ xuất hiện