Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản | |
---|---|
大日本帝國陸軍航空部隊 Dainippon Teikoku Rikugun Kōkūbutai | |
Hoạt động | 1912–1945 |
Quốc gia | Đế quốc Nhật Bản |
Quân chủng | Lục quân Đế quốc Nhật Bản |
Phân loại | Không quân |
Chức năng | Không chiến |
Bộ phận của | Quân đội Đế quốc Nhật Bản |
Tham chiến | Chiến tranh thế giới thứ nhất Sự kiện Phụng Thiên Chiến tranh Trung-Nhật Chiến dịch Khalkhyn Gol Chiến tranh thế giới thứ hai |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy danh nghĩa | Thiên hoàng Nhật Bản |
Chỉ huy nổi tiếng | Hajime Sugiyama Vương tước Higashikuni Naruhiko Hata Shunroku Kawabe Masakazu |
Huy hiệu | |
Dấu tròn |
Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản hay Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản (tiếng Nhật: 大日本帝國陸軍航空部隊, chuyển tự Dainippon Teikoku Rikugun Kōkūbutai, nguyên văn 'Đại Nhật Bản đế quốc lục quân hàng không bộ đội' là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như quân chủng Lục quân nói chung chủ yếu được mô phỏng theo Quân đội Đức, Bộ đội hàng không ban đầu được phát triển theo đường lối tương tự Không quân Lục quân Đế quốc Đức (tức Luftstreitkräfte); nhiệm vụ chính của binh chủng này là hỗ trợ không lực tầm gần cho lực lượng mặt đất, cũng như đánh chặn trên không, tuy khả năng này còn hạn chế. Binh chủng cũng thực hiện trinh sát trên không cho nhiều binh chủng khác của Lục quân. Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật còn tham gia ném bom chiến lược vào nhiều thành phố như Thượng Hải, Nam Kinh, Quảng Châu, Trùng Khánh, Rangoon và Mandalay, dù đây không phải là nhiệm vụ chính của binh chủng này, vào thời điểm đó binh chủng thậm chí còn thiếu lực lượng oanh tạc cơ hạng nặng.
Binh chủng này cũng không thường xuyên triển khai máy bay quan sát/dò tìm pháo binh địch; mà giao cho các tiểu đoàn pháo binh dưới mặt đất điều khiển máy bay hạng nhẹ cùng khinh khí cầu làm vai trò này.
Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn chịu hầu hết trách nhiệm về oanh tạc cơ và tấn công tầm xa, cũng như phòng không chiến lược. Mãi đến giai đoạn sau của Chiến tranh Thái Bình Dương, hai lực lượng không quân này mới cố gắng hợp lại để bảo vệ các đảo quê hương.
Quân đội Nhật Bản bắt đầu quan tâm đến khinh khí cầu vào giữa thế kỉ 19, sau khi ghi nhận quân đội các nước châu Âu sử dụng. Năm 1874, người Nhật lần đầu tiên tiến hành thử nghiệm bay lên tại một trường quân sự thiếu sinh quân. Nước Nhật bắt đầu chế tạo khinh khí cầu của riêng họ vào năm 1877, dựa trên một chiếc mua được của Pháp. Nhà công nghiệp Yamada Isaburô, bắt đầu phát triển khinh khí cầu hiđrô vào năm 1897. Năm 1900, ông phát minh ra khinh khí cầu hình trụ rồi bán cho Quân đội Đế quốc Nhật Bản. Quân đội lần đầu tiên triển khai những khinh khí cầu này trong Chiến tranh Nga–Nhật năm 1904-1905, nhằm phát hiện pháo binh đối phương.[1][2][3]
Năm 1907, Trung tá Eisuke Yamamoto tiếp xúc với Tướng Terauchi Masatake, Bộ trưởng Lục quân và Đô đốc Minoru Saitō, Bộ trưởng Hải quân. Họ cùng xây dựng một chính sách hàng không, thành lập một đơn vị khinh khí cầu quân sự chuyên dụng. Năm 1909, cùng với Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Đại học Đế quốc Tōkyō, Rinji Gunyo Kikyu Kenkyukai (tức Hội Nghiên cứu Khinh khí cầu Quân sự Lâm thời) được thành lập. Hội do Thiếu tướng Masahiko Obama làm chủ tịch và tiếp tục thúc đẩy chính sách hàng không của Nhật Bản cho đến năm 1920.[2] Trong tháng 3 năm đó, Trung úy Lục quân Hino và Kĩ sư Hải quân Sanji Narahara mỗi người thiết kế một chiếc máy bay. Narahara đã bay chiếc máy bay này vào ngày 5 tháng 5 năm 1910, trở thành phi cơ đầu tiên do Nhật Bản chế tạo làm được như vậy. Các thiết kế sau đó đều không thành công, Lục quân và Hải quân quyết định sử dụng máy bay nhập từ nước ngoài cho đến khi có thể xây dựng đủ trình độ kĩ thuật ở Nhật Bản để thiết kế máy bay của riêng mình.[1][4]
Năm 1910, hội cử Đại úy Yoshitoshi Tokugawa và Đại úy Hino Kumazō lần lượt sang Pháp và Đức để nhận đào tạo phi công và mua máy bay.[5] Quân đội Nhật Bản đã mua chiếc phi cơ đầu tiên, đó là một chiếc hai tầng cánh Farman và một chiếc cánh đơn Grade, được các sĩ quan từ Tây Âu mang về.[5] Vào ngày 19 tháng 12 năm 1909, Cơ trưởng Yoshitoshi Tokugawa trên chiếc Farman III đã thực hiện chuyến bay chạy bằng năng lượng đầu tiên thành công trên đất Nhật Bản tại Sân diễu hành Yoyogi ở Tokyo.[2] Năm sau, 1911, một số máy bay khác đã được nhập khẩu, một phiên bản cải tiến của máy bay hai tầng cánh Farman III là Kaishiki Số 1, được chế tạo và bay tại Nhật Bản bởi Đại úy Togugawa.[5] Cũng trong năm 1911, một quyết định chính sách được đưa ra, chính thức tách không lực Lục quân và Hải quân thành hai nhánh riêng biệt.[4]
Máy bay biên chế lục quân đầu tiên của Nhật Bản | |||
---|---|---|---|
Năm | Máy bay | Loại | Số |
1910 | Farnham | III | 1 |
Grade | cánh đơn | 1 | |
1911 | không rõ | không rõ | |
Kaishiki | Số 1 | 1 |
Năm 1914, khi chiến tranh bùng nổ, quân Nhật bao vây thuộc địa Thanh Đảo của Đức, máy bay của lục quân và hải quân tiến hành nhiều hoạt động trinh sát và oanh tạc. Đoàn Không quân Lâm thời gồm bốn chiếc Maurice Farman MF.7 hai tầng cánh và một chiếc Nieuport VI-M đơn cánh đã thực hiện hết 86 phi vụ.[6] Vào tháng 12 năm 1915, một tiểu đoàn không quân hợp từ 1 đại đội không quân và 1 đại đội khinh khí cầu được thành lập dưới Vận tải Lục quân chỉ huy bộ, đặt tại Tokorozawa. Vận tải Lục quân chỉ huy bộ chịu trách nhiệm cho tất cả các hoạt động trên không. Tổng cộng 10 máy bay đã được bổ sung vào Bộ đội Hàng không Lục quân vào những năm 1914 và 1915.[7]
Một số phi công Nhật Bản đã phục vụ cho đoàn bay Pháp trong cuộc chiến. Shigeno Kiyotake gia nhập đoàn bay vào tháng 12 năm 1914. Ông là thành viên của liên đoàn quân át chủ bài của Pháp, được xác nhận đã bắn hạ hai máy bay Đức, sáu máy bay chưa được xác nhận . Ông được trao tặng Ordre national de la Légion d'honneur, huân chương cao quý nhất của nước Pháp. Kobayashi Shukunosuke trở thành phi công được cấp phép vào tháng 12 năm 1916, tử trận trong Trận tiến công mùa Xuân 1918. Sau này ông được truy tặng giải thưởng Croix de Guerre. Isobe Onokichi, Ishibashi Katsunami, Masaru Kaiya (Hải quân), Tadao Yamanaka, Masatoshi Takeishi, Isakitchy Nagao và Moro Goroku, một kĩ sư máy bay của Kawasaki, cũng từng phục vụ trong Đoàn bay Pháp.[8][9]
Tuy nhiên, cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ nhất thì người ta mới nghiêm túc chú ý đến hàng không quân sự. Các nhà quan sát quân sự Nhật Bản ở Tây Âu đã nhanh chóng nhận ra lợi thế của công nghệ mới này, và sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản mua một số lượng lớn máy bay quân sự dư thừa. gồm 20 chiếc Sopwith 1½ Strutter, 3 chiếc Nieuport 24 và 6 chiếc Spad. Để đối phó với sự gia tăng số lượng máy bay này, ngôi trường dạy bay đầu tiên đã thành lập tại Tozorozawa (Tokorozawa Rikugun Koku Seibi Gakkō), sau đó là Akeno và Shimoshizu.[7] Một phái bộ quân sự Pháp được mời đến Nhật nhằm giúp phát triển ngành hàng không. Sứ mệnh này do Jacques-Paul Faure đứng đầu, gồm 63 thành viên để thiết lập các nguyên tắc cơ bản của lĩnh vực hàng không Nhật Bản, sứ mệnh cũng mang theo một số phi cơ, gồm 30 chiếc Salmson 2A2 cũng như 2 chiếc Caquot điều khiển được. Năm 1919, 40 chiếc Nieuport, 100 chiếc Spad XIII và 2 chiếc Breguet XIV. Trong thời gian này, máy bay Nhật Bản đã có vai trò chiến đấu trong cuộc can thiệp ở Siberia năm 1920 chống lại Hồng quân Bolshevik gần Vladivostok.
Nhà máy sản xuất phi cơ đầu tiên ở Nhật Bản, Công ti Phi hành cơ Nakajima, được thành lập năm 1916, nhận giấy phép chế tạo Nieuport 24, Nieuport-Delage NiD 29 C.1 (với tên gọi Nakajima Ko-4) cũng như động cơ Hispano-Suiza. Nakajima sau đó sản xuất theo giấy phép chiếc Gloster Sparrowhawk và Bristol Jupiter. Tương tự, Công ti Công nghiệp nặng Mitsubishi cũng bắt đầu lắp ráp máy bay theo giấy phép của Sopwith vào năm 1921, Công ti Công nghiệp nặng Kawasaki sản xuất bộc kích cơ Salmson 2 A.2 từ Pháp, đồng thời thuê nhiều kĩ sư Đức, đơn cử như Tiến sĩ Richard Vogt, để sản xuất các thiết kế máy bay ném bom sơ khởi như Kiểu 88. Ngoài ra, Kawasaki còn sản xuất động cơ máy bay theo giấy phép của BMW. Vào cuối những năm 1920, Nhật Bản đã có thể sản xuất những thiết kế độc quyền, đáp ứng được nhu cầu của Lục quân, và đến năm 1935, Nhật Bản đã trữ được một lượng lớn các thiết kế phi cơ bản địa có kĩ thuật tinh vi.
Năm 1919, lực lượng không quân lục quân của Đế quốc Nhật Bản được tổ chức thành một chuỗi chỉ huy riêng trong Bộ Chiến tranh Nhật Bản. Tháng 5 năm 1925, Bộ đội hàng không Đế quốc Nhật Bản chính thức được thành lập dưới sự chỉ huy của Trung tướng Kinichi Yasumitsu, được coi như binh chủng ngang hàng với pháo binh, kỵ binh hoặc bộ binh,[10] và có 3.700 quân nhân với khoảng 500 máy bay.[10] Trong một cuộc tái tổ chức vào ngày 5 tháng 5 năm 1927, lập ra Liên đội bay (飛行連隊 (Phi hành liên đội) Hikō Rentai), mỗi liên đội gồm hai tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn bao gồm tối đa bốn phi đoàn. Mỗi Liên đội bay là một đơn vị hợp thành, gồm hỗn hợp các phi đoàn chiến đấu cơ, quan trắc cơ.
Đến Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ cấu chỉ huy của Không lực Đế quốc Nhật Bản được chia thành ba nhánh khu vực. Các chiến dịch do Tổng tham mưu trưởng kiểm soát thông qua những khu vực trực tiếp của Lục quân đến các Hàng không quân trong từng khu vực tương ứng. Việc đào tạo thuộc Tổng giám bộ Hàng không, các cá nhân, công việc hành chính và mua sắm thì thuộc cả Bộ trưởng Bộ Chiến tranh và Hàng không chỉ huy bộ.[7]
Các Hàng không quân tương ứng:
Xem Tổng giám bộ Hàng không Lục quân
Đến năm 1941, Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản có khoảng 1.500 chiến đấu cơ. Trong những năm đầu tiên của cuộc chiến, Nhật Bản tiếp tục phát triển kĩ thuật và triển khai các máy bay ngày càng tiên tiến, chiếm ưu thế trên không trên hầu hết các chiến trường nhờ kinh nghiệm chiến đấu của phi hành đoàn và chất lượng điều khiển của các phi cơ.
Tuy nhiên, khi chiến tranh tiếp diễn, Nhật Bản nhận thấy rằng khả năng sản xuất của họ không thể sánh được với phe Đồng minh. Ngoài những vấn đề về sản xuất này, Nhật Bản còn phải đối mặt với áp lực chiến đấu liên tục và do đó tiếp tục bị tổn thất. Hơn nữa, liên tiếp xảy ra tình trạng gián đoạn sản xuất do phải di chuyển các nhà máy từ địa điểm này sang địa điểm khác, mỗi lần di chuyển đều nhằm mục đích tránh bị oanh tạc chiến lược bởi quân Đồng minh. Giữa những yếu tố kể trên và nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như các vật liệu chiến lược bị hạn chế, người Nhật thấy mình vượt trội về mặt vật chất.
Về nhân lực, Nhật Bản thậm chí còn kém hơn. Các phi hành đoàn có kinh nghiệm đều đã tử trận và việc thay thế họ thì chưa được lên kế hoạch. Người Nhật đã mất đi quá nhiều sĩ quan huấn luyện lành nghề, và họ không có nhiên liệu cũng như thời gian để có thể sử dụng những nhân sự huấn luyện mà họ hiện có. Vì những lẽ đó, vào cuối thời kì tồn tại của mình, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc đã dùng đến những cuộc xung kích kamikaze, chống lại lực lượng Đồng minh áp đảo.
Các máy bay quan trọng được Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh thế giới thứ hai là:
Cùng với sự bùng nổ của Chiến tranh Trung–Nhật năm 1937, các điều kiện tác chiến phù hợp cho việc dùng nhiều đơn vị nhỏ lẻ, dẫn đến sự thành lập nhiều Đại đội bay độc lập (独立飛行大隊 (Độc lập phi hành đại đội) Dokuritsu Hikō Daitai) hoặc thậm chí nhỏ hơn nữa là các Trung đội bay độc lập (独立飛行中隊 (Độc lập phi hành trung đội) Dokuritsu Hikō Chutai), mỗi cái đều có những dấu hiệu đặc trưng riêng.
Vào tháng 8 năm 1938, việc tái tổ chức hoàn toàn Bộ đội hàng không Lục quân đã dẫn đến thành lập Chiến đội bay (飛行戦隊 (Phi hành chiến đội) Hikō Sentai), thay thế hết tất cả các Đại đội bay và Trung đoàn bay cũ. Mỗi Chiến đội là một đơn vị đơn mục đích, gồm điển hình là ba đội bay, chia thành ba tiểu đội (小隊 shōtai) mỗi tiểu đội gồm ba máy bay. Tính cả đội bay dự bị và tiểu đội chỉ huy, một Chiến đội bay thường có 45 máy bay (tiêm kích) hoặc tối đa 30 máy bay (ném bom hoặc trinh sát). Hai hoặc nhiều Chiến đội bay hợp thành Phi đoàn (飛行団 (Phi hành đoàn) Hikōdan), cùng với các căn cứ, đơn vị hỗ trợ và một số đội bay độc lập, hợp thành Tập đoàn bay (飛行集団 (Phi hành tập đoàn) Hikō Shudan).
Năm 1942, Tập đoàn bay đổi thành Sư đoàn bay (飛行師団 (Phi hành sư đoàn) Hikō Shidan), nhằm phản ánh thuật ngữ của các sư đoàn bộ binh, nhưng cấu trúc vẫn giữ nguyên. Hai Sư đoàn bay, cùng với một số đơn vị độc lập hợp thành Hàng không quân (航空軍 Kōkū gun).
Trong suốt phần lớn thời gian của Chiến tranh Thái Bình Dương, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản được tổ chức thành bốn Hàng không quân, với hai đơn vị nữa được bổ sung vào giai đoạn cuối của cuộc chiến:
Vào tháng 4 năm 1944, một cuộc tái tổ chức Bộ đội hàng không Lục quân Đê quốc Nhật Bản đã diễn ra. Các đơn vị bảo dưỡng, đơn vị mặt đất, trước đó là một bộ chỉ huy riêng biệt, sau được sáp nhập vào Chiến đội bay (Hiko Sentai). Các đội bay của Chiến đội được chỉ định lại thành Phi đội (飛行隊 (Phi hành đội) Hikōtai), các đơn vị mặt đất thì được chỉ định là Chỉnh bị đội (整備隊 Seibutai).
Những thay đổi khác trong giai đoạn cuối cuộc chiến là sự hình thành của "Đơn vị xung kích đặc thù" và "Đơn vị rung chuyển trên không", đây là những đơn vị chỉ tồn tại trong thời gian ngắn có tên riêng (thường lấy từ thần thoại hoặc lịch sử Nhật Bản), nhưng cũng nằm trong biên các phi đoàn hiện có. Các đơn vị này được huấn luyện đặc biệt với nhiệm vụ không đối không đâm máy bay ném bom quân Đồng minh. Khi đó, chúng thường bỏ vũ trang và gia cố lại khung máy bay.
Trong giai đoạn cuối cuộc chiến, Đơn vị xung kích đặc thù đã phát triển thành những đội quân cảm tử chuyên dụng cho nhiệm vụ thần phong. Khoảng 170 đơn vị trong số này đã được thành lập, 57 đơn vị của riêng Sư đoàn bay hướng dẫn. Được trang bị trên danh nghĩa với 12 máy bay mỗi đội, cuối cùng cả đơn vị bao gồm khoảng 2000 máy bay.
Lần tái tổ chức cuối cùng diễn ra trong quá trình chỉnh bị cho cuộc tác chiến Ketsugō bảo vệ các hòn đảo chính quốc vào năm 1945, khi mà toàn bộ các Hàng không quân được kết hợp lại dưới sự chỉ huy tập trung của Tướng Masakazu Kawabe.[11]
Tập đoàn đĩnh tiến (挺進集団 Teishin Shudan) là lực lượng đặc biệt/đơn vị đổ bộ đường không của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ teishin (đĩnh tiến) có thể hiểu theo nghĩa đen là "đột kích". Đơn vị này cũng có thể được coi như "biệt kích" trong thuật ngữ của các quân đội khác. Được gọi là sư đoàn, song đơn vị này có quy mô cấp lữ đoàn, và là một phần của Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Do đó, đơn vị Teishin này khác với những đơn vị nhảy dù trên biển của Hải quân đặc biệt lục chiến đội (Kaigun tokubetsu riku sentai)
'Giretsu' (義烈空挺隊 (Nghĩa liệt không đĩnh đội) Giretsu Kūteitai) là một đơn vị lực lượng đặc biệt trên không của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, thành lập từ những lính dù Lục quân (tức Teishin Shudan) vào cuối năm 1944 như một nỗ lực cuối cùng nhằm giảm thiểu và trì hoãn các cuộc ném bom của quân Đồng minh vào đảo Nhật Bản. Đơn vị Giretsu do Trung tướng Kyoji Tominaga chỉ huy.
Tính đến năm 1940, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản có:
Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản có một bộ phận kĩ thuật, Xưởng binh khí hàng không lục quân Tachikawa, chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển không lực. Xưởng binh khí này có một đội thử nghiệm các máy bay Đồng minh bắt được là Sở Nghiên cứu kĩ thuật hàng không (Koku Gijutsu Kenkyujo).
Xưởng binh khí Tachikawa cũng liên kết với Tachikawa Hikoki K.K. và Rikugun Kokukosho K.K., đây là các doanh nghiệp chế tạo máy bay do Lục quân sở hữu và điều hành. giống như Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản điều hành công ti riêng là Xưởng Kĩ thuật Hàng không Yokosuka.
Do mối quan hệ không mấy tốt đẹp giữa Lục quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phía Lục quân nhận thấy cần phải mua sắm, vận hành những tàu sân bay của riêng họ với mục đích hộ tống và bảo vệ các đoàn tàu vận tải của Lục quân. Các tàu sân bay hộ tống/vận tải này được cải biến từ các tàu chở khách hoặc tàu buôn nhỏ, có khả năng vận hành từ 8 đến 38 máy bay, tùy thuộc vào loại và kích cỡ, đồng thời cũng được sử dụng để vận chuyển nhân sự cùng xe tăng.
Những con tàu này gồm có Taiyō Maru, Unyō Maru, Chūyō Maru, Kaiyō Maru, Shinyo Maru, Kamakura Maru, Akitsu Maru, Nigitsu Maru, Kumano Maru, Yamashiro Maru, Shimane Maru, Chigusa Maru (chưa hoàn thành) và Otakisan Maru (chưa hoàn thành), được vận hành bởi những hải đoàn dân sự, còn những người lính thì điều khiển các khẩu súng phòng không hạng nhẹ và hạng trung.
Là một phần không thể thiếu của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Bộ đội hàng không Lục quân mặc quân phục Lục quân Đế quốc Nhật tiêu chuẩn. Chỉ có phi hành đoàn và quân nhân mặt đất mặc sọc màu xanh da trời, còn các sĩ quan mặc quân phục bậc hàm, hoạ tiết mảng màu xanh da trời.
|date=
(trợ giúp)