Lễ Đôn Ba Đồ Lỗ (chữ Hán: 禮敦巴圖魯; tiếng Mãn: ᠯᡳᡩᡠᠨ ᠪᠠᡨᡠᡵᡠ, Möllendorff: lidun baturu), Ái Tân Giác La, con trai cả của Thanh Cảnh Tổ Giác Xương An, anh trai của Tháp Khắc Thế, bá phụ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích.[1] Lễ Đôn trời sinh anh dũng, góp công lớn trong việc giúp Tháp Khắc Thế dẹp yên các bộ lạc Thạc Sắc Nạp (硕色纳), Nại Hô (奈呼), được ban hiệu Ba Đồ Lỗ.[2] Năm 1583, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi binh, Lễ Đôn đã qua đời một khoảng thời gian. Nỗ Nhĩ Cáp Xích đóng đô ở Hách Đồ A Lạp, an táng Cảnh Tổ và Hiển Tổ ở Dương Lỗ sơn, Lễ Đôn cũng bồi tàng ở đó.[3] Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), Hoàng Thái Cực xưng Đế, đổi quốc hiệu là Đại Thanh. Lễ Đôn được truy phong Vũ Công Quận vương (武功郡王),[4] cùng Phúc tấn được phối hưởng trong Thái miếu.[5][6] Năm Càn Long thứ 19 (1754), ông được đưa vào thờ trong Hiền Vương từ ở Thịnh Kinh. Hậu duệ của ông được ghi vào tộc phổ của Giác La.[2]
Tắc Lặc (塞勒, 1585 - 1657), Thanh sử cảo chép là Sắc Lặc (色勒), người Mãn ChâuChính Lam kỳ. Được Nỗ Nhĩ Cáp Xích phong làm Ngưu lục Ngạch chân.[a] Được Hoàng Thái Cực phong làm Cố sơn Ngạch chân của Chính Lam kỳ.[b] Có công đánh bại quân Minh trong trận Đại Lăng Hà. Sau bị giáng làm Mai lặc Ngạch chân Tương Hoàng kỳ.[c] Những năm Sùng Đức, có công chinh phạt Triều Tiên, được phong thế chức Ngưu lục Chương kinh[d][e] kiêm Lại bộ Hữu Tham chính. Năm 1644 nhậm Nội đại thần. Sau được phong Nhất đẳng A Tư Cáp Ni Cáp Phiên,[f][g] sau tiến Nhị đẳng Tinh Kỳ Ni Cáp Phiên.[h] Sau khi qua đời được truy thụy "Cần Khác" (勤悫). Có 5 con trai.
Con trai thứ 3: Ngạch Nhĩ Đức (額爾德, 1605 - 1671), được phong Nhất đẳng Tử kiêm Nhất vân Kỵ úy. Năm 1669 bị cách tước. Sau lại tập tước Nhị đẳng Tử từ cha. Có 4 con trai.
Thác Đặc Ba (託特拖, 1587 - 1644), có 3 con trai đều được phong Nhị đẳng Khinh xa Đô úy.
^Năm 1660, Ngưu lục Ngạch chân (牛彔额真, tiếng Mãn: ᠨ᠋ᡳᡵᡠ ᡝᠵᡝᠨ, Möllendorff: niru ejen được định danh trong Hán ngữ là Tá lĩnh
^Năm 1660, Cố sơn Ngạch chân được định danh trong Hán ngữ là Đô thống
^Năm 1660, Mai lặc Ngạch chân được định danh trong Hán ngữ là Phó đô thống
^Theo Ngưu lục chế của người Nữ Chân, 300 hộ = 1 Ngưu lục, 5 Ngưu lục = 1 Giáp lạt, 5 Giáp lạt = 1 Cố Sơn. Đứng đầu mỗi đơn vị này là Ngạch chân (nghĩa là chủ)
^Chương kinh (章京, tiếng Mãn: ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ, Möllendorff: janggin, đại từ điển: zhanggin, Abkai: janggin, tiếng Mông Cổ: Занги) dịch sang tiếng Hán là Tướng quân; đến năm 1634, Giáp lạt Ngạch chân được đổi gọi là Giáp lạt Chương kinh (tương tự Ngưu lục ngạch chân được đổi gọi là Ngưu lục Chương kinh; chỉ có Cố sơn Ngạch chân là không đổi). Năm 1660, Giáp lạt Chương kinh được định danh trong Hán ngữ là Tham lĩnh (Ngưu lục Chương kinh được định danh là Tá lĩnh)
^A Tư Cáp Ni Cáp Phiên (阿思哈尼哈番, tiếng Mãn: ᠠᠰᡥᠠᠨ ᡳ ᡥᠠᡶᠠᠨ, chuyển tả: ashan-i hafan), nguyên nghĩa là "Phó quan". Năm 1736, được định danh trong Hán ngữ là Nam tước.
^Vì Lễ Đôn và hậu duệ thuộc vào "Giác La" mà không phải "Tông thất", vì vậy chỉ nhận được tước vị của Quan viên như Công Hầu Bá Tử Nam mà không được nhận tước vị của Hoàng tộc như các tước vị Nhập bát phân hay Bất nhập bát phân
^Tinh Kỳ Ni Cáp Phiên (精奇尼哈番, tiếng Mãn: ᠵᡳᠩᡴᡳᠨᡳ ᡥᠠᡶᠠᠨ, chuyển tả: jingkini hafan) , nguyên nghĩa là "Chính quan". Năm 1736, được định danh trong Hán ngữ là Tử tước