Lisunov Li-2 | |
---|---|
Lisunov Li-2 thuộc Không quân Liên Xô tại Monino gần Moscow tháng 8 năm 1994 | |
Kiểu | Máy bay chở hàng/chở khách và ném bom hạng nhẹ |
Nhà chế tạo | GAZ |
Vào trang bị | 1939 |
Sử dụng chính | Không quân Liên Xô Aeroflot, và được xuất khẩu tới 14 nước |
Giai đoạn sản xuất | 1939-1952 |
Số lượng sản xuất | 6,157[1][2] (theo nghiên cứu mới nhất 4,937 [3]) |
Phát triển từ | Douglas DC-3 |
Lisunov Li-2, tên định danh ban đầu PS-84 (tên hiệu NATO: Cab), là một phiên bản sản xuất theo giấy phép của chiếc Douglas DC-3. Nó được sản xuất tại nhà máy GAZ-84 gần Moskva, và sau này là tại GAZ-34 ở Tashkent. Dự án được lãnh đạo bởi kỹ sư hàng không Boris Pavlovich Lisunov.
Liên Xô nhận được chiếc DC-2 đầu tiên năm 1935. Dù tổng cộng 18 chiếc DC-3 đã được đặt hàng từ ngày 11 tháng 4 năm 1936, Liên Xô đã mua 21 chiếc DC-3 cho Aeroflot trước Thế chiến II. Thỏa thuận gồm một giấy phép tự do chế tạo ngày 15 tháng 7 năm 1936.[cần dẫn nguồn] Lisunov đã trải qua hai năm tại Douglas Aircraft Company, từ năm 1938 tới năm 1940 và chuyển đổi chiếc C-47 thành một phiên bản của Liên Xô, và được đặt tên định danh PS-84 - Passazhirskiy Samolyot 84, máy bay chở khách 84 (ví dụ sản xuất tại GAZ/Nhà máy số 84).
Dù có ý định ban đầu đưa vào một số thay đổi cần thiết cho thiết kế cơ bản,[4] nhà máy GAZ-84 đã đưa ra 1,200 thay đổi kỹ thuật từ các bản vẽ của Douglas, và đây là một nhiệm vụ không hề đơn giản cho Vladimir Myasishchev để sửa đổi tất cả các đơn vị đo đạc của Mỹ sang hệ mét.[5] Một số thay đổi là bắt buộc, như việc sử dụng các động cơ Shvetsov ASh-62IR của Nga.
Tiêu chuẩn thiết kế thực tiễn của Nga cũng đòi hỏi việc sử dụng các động cơ có thể đóng hoàn toàn kín, để đương đầu với các điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt của Nga. Một sải cánh hơi ngắn hơn cũng được áp dụng nhưng nhiều sự sửa đổi khác không dễ dàng nhận biết như thế. Cửa hành khách được chuyển sang phía phải thân, với một cửa chất hàng mở phía trên ở phía trái thay cho cửa hành khách nguyên bản. Kết cấu tăng cường gồm lớp vỏ hơi nặng hơn bởi các khuôn vỏ theo hệ mét không hoàn toàn chính xác như tấm kim loại được sản xuất tại Mỹ. Các phần cứng theo hệ mét của Nga cũng khác biệt và nhiều kết cấu thép như cửa động cơ và càng đáp, bánh xe, lớp cũng khá khác so với thiết kế nguyên bản. Những sửa đổi sau này cho phép lắp đặt càng đáp trên tuyết trong trường hợp hoạt động ở vùng cực lạnh giá. Những chiếc PS-84 bắt đầu xuất xưởng tại GAZ-84 từ nănm 1939.[6]
Một số phiên bản quân sự của Li-2 cũng có khoang chứa bom và cửa bụng, không giống phiên bản phát triển quân sự C-47 của DC-3.
Ban đầu chiếc PS-84 hoạt động trong Aeroflot như một máy bay chở khách trước Thế chiến II. Khi Đức tấn công Liên Xô năm 1941 nhiều chiếc PS-84 được đưa vào hoạt động quân sự với tên định danh mới Lisunov Li-2 năm 1942. Các phiên bản quân sự được trang bị một súng máy 7.62 mm (.30 in) ShKAS, và sau này là một khẩu súng máy hạng nặng 12.7 mm (.50 in) UBK. Chiếc máy bay được sử dụng cho vận tải, cung cấp hậu cần cho du kích, ném bom, và cả như một máy bay cứu thương. Một phiên bản được đặt tên Li-2VV (Vojenny Variant = biến thể quân sự) có một chiếc mũi được thiết kế lại cho trang bị phòng vệ và có thể mang tới bốn quả bom dưới cánh. Những quả bom nhỏ hơn có thể được mang theo trong thân và được phi đội ném qua cửa chất hàng.
Tổng cộng 4,937[3] chiếc máy bay đã được sản xuất ở tất cả các phiên bản Li-2 từ năm 1940 tới năm 1954 và nó được sử dụng nhiều ở Đông Âu cho tới thập niên 1960. Những chiếc cuối cùng được sử dụng ở Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1980.[3] Có nhiều phiên bản, gồm cả máy bay chở khách, chở hàng, vận tải quân sự, trinh sát, chụp ảnh trên không, thả dù, ném bom, và các biến thể ở độ cao lớn. Chiếc Li-2 cũng hoạt động nhiều trong Không quân Trung Quốc trong thập niên 1940 1950.
Nhiều hãng hàng không đã sử dụng Lisunov Li-2, trong số đó có Aeroflot, CAAK, CSA, LOT, Malév, Polar Aviation, TABSO và Tarom.[7]
Chỉ có một chiếc Li-2 được bảo tồn ở tình trạng có thể hoạt động. Chiếc HA-LIX của Hungary được sản xuất năm 1949 tại Airframe Factory Nr.84 (GAZ-84) của Tashkent, với số serial 18433209 và vẫn bay phục vụ các tour ngoạn cảnh và thường xuyên tham gia các triển lãm hàng không.[8]