Bản đồ tóm lược mùa bão | |
Lần đầu hình thành | 18 tháng 1 năm 2021 |
---|---|
Lần cuối cùng tan | 22 tháng 12 năm 2021 |
Bão mạnh nhất | Surigae – 895 hPa (mbar), 220 km/h (140 mph) (duy trì liên tục trong 10 phút) |
Áp thấp nhiệt đới | 41 |
Tổng số bão | 22 |
Bão cuồng phong | 9 |
Siêu bão cuồng phong | 5 (Không chính thức) |
Số người chết | 554 |
Thiệt hại | $2.77 tỉ (USD 2021) |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2019, 2020, 2021, 2022, 2023 |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2021 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2021, chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 12, chủ yếu là các cơn bão hình thành trong phạm vi của Thái Bình Dương ở Bắc Bán Cầu và từ kinh tuyến 100 đến 180 độ. Bão nhiệt đới hình thành trên toàn Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được đặt tên bởi Cục Khí tượng Nhật Bản JMA. Áp thấp nhiệt đới được Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp JTWC theo dõi sẽ có thêm hậu tố "W" phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc di chuyển vào khu vực mà Philippines theo dõi cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PAGASA). Đó là lý do đôi khi vì sao một cơn bão lại có hai tên gọi khác nhau.
Mùa bão bắt đầu với một áp thấp nhiệt đới trên vùng biển Philippines vào ngày 19/01. Sau đó 1 tháng, cơn bão đầu tiên (Dujuan) hình thành và đổ bộ vào Philippines gây một số thiệt hại. Tháng 4 năm 2021, cơn bão Surigae trở thành cơn bão mạnh nhất trong tháng 4 từng ghi nhận được, song chỉ có tác động đến một số đảo ở Thái Bình Dương. Tháng 6, bão Choi-wan hình thành và đổ bộ Philippines, bắt đầu mùa mưa ở nước này và gây thiệt hại đáng kể. Bão Koguma ngay sau đó hình thành trên biển Đông và đổ bộ vào khu vực Bắc Trung Bộ (tỉnh Thanh Hóa) của Việt Nam, tác động đến đảo Hải Nam (Trung Quốc) và Lào. Bão Champi hình thành vào nửa cuối tháng 6, song ít gây tác động đến đất liền.
Sang tháng 7 xoáy thuận nhiệt đới hoạt động nhộn nhịp hơn, song phần lớn cường độ yếu hoặc không quá mạnh. Đầu tháng 7, xuất hiện 2 áp thấp nhiệt đới tác động đến Philippines, Trung Quốc và Việt Nam. Nửa sau tháng 7, xuất hiện bão In-fa, Cempaka đổ bộ vào Trung Quốc, khi nước này đang hứng chịu trận lụt tồi tệ nhất trong nhiều năm qua (tại tỉnh Hà Nam). Bão Cempaka có quỹ đạo khá phức tạp, vòng qua khu Đông Bắc Việt Nam xuống Vịnh Bắc Bộ và tan trên biển Đông. Hai cơn bão đều đã gây thiệt hại nặng tại Trung Quốc, bão Cempaka còn có những tác động đến phía Bắc Việt Nam. Bão Nepartak hình thành ngay khi sau đó và đổ bộ vào Nhật Bản trong thời gian nước này tổ chức Thế vận hội Mùa hè 2020.
Cuối tháng 7, đầu tháng 8, một loạt các áp thấp nhiệt đới hình thành trên Tây Bắc Thái Bình Dương. Ba trong những số đó mạnh lên thành các cơn bão: Lupit, Nida và Mirinae. Hai cơn bão Lupit, Mirinae có những ảnh hưởng tới Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Bão Omais sau đó đổ bộ vào Hàn Quóc ở cường độ áp thấp nhiệt đới. Tháng 8 năm 2021 lần đầu tiên không xuất hiện bão cuồng phong trên Tây Bắc Thái Bình Dương.
Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2021, một loạt xoáy thuận nhiệt đới liên tục hình thành, trong đó có hai siêu bão đó là Chanthu, Mindulle và đều tác động đến Nhật Bản. Riêng Chanthu còn tác động đến Trung Quốc, Đài Loan và Phillippines. Bão Conson, Kompasu đều tác động và gây thiệt hại nặng ở Philippines và Việt Nam. Bão Dianmu cùng với Lionrock đổ bộ vào Việt Nam, Lionrock và Kompasu cũng tác động và gây thiệt hại nặng tại đảo Hải Nam (Trung Quốc).
Mùa bão bất ngờ im ắng trong nửa đầu tháng 11, và đến nửa cuối tháng 11 và tháng 12 xuất hiện hai siêu bão Nyatoh, Rai. Bão Rai là một trong những cơn bão mạnh nhất đổ bộ Philippines cũng là một trong những cơn bão mạnh nhất trên biển Đông. Bão Rai gây thiệt hại vô cùng nghiêm trọng tại Philippines. Hơn nữa, cũng có một áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào khu vực Malaysia gây ngập lụt nghiêm trọng vào giữa tháng 12.
Nhìn chung, mùa bão 2021 hoạt động tương đương mùa bão 2020 và yếu hơn so với trung bình nhiều năm. Cả năm có 22 cơn bão và 9 cơn bão cuồng phong (ít hơn năm 2020) song số siêu bão lại nhiều hơn (5 của 2021 so với 2 của 2020). Tuy nhiên, bão trong năm 2021 có phần bị rải rác về các tháng trong năm nên cũng có thể nói là hoạt động có phần yếu hơn một chút so với năm 2020 (năm 2020 bão tập trung nhiều về 7 tháng mùa bão).
Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này.(tháng 11 năm 2024) |
Kể từ năm 2021, phân loại bão và áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam tại trang này cũng như các trang Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ thực hiện theo đúng quy định được đặt ra tại Quyết định số 18/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 22 tháng 4 năm 2021. Theo đó bão, ATNĐ ở nước ta gồm 05 cấp: Áp thấp nhiệt đới (cấp 6-7), Bão (bão thường, cấp 8-9), Bão mạnh (cấp 10-11), Bão rất mạnh (cấp 12-15), Siêu bão (từ cấp 16 trở lên); không có các từ "cuồng phong", "nhiệt đới" đi kèm đối với các cơn bão.[1]
Phân loại | Số lượng bão và ATNĐ theo tháng | Tổng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 | ||
ATNĐ (cấp 6-7) |
0 | 2 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 3 |
Bão (bão thường) (cấp 8-9) |
2 | 0 | 1 | 1 | 1 | 0 | 0 | 5 |
Bão mạnh (cấp 10-11) |
0 | 0 | 0 | 1 | 1 | 0 | 0 | 2 |
Bão rất mạnh (cấp 12-15) |
0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 |
Siêu bão (≥ cấp 16) |
0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 1 |
Tổng | 2 | 3 | 1 | 2 | 3 | 0 | 1 | 12 |
Bão số | Tên quốc tế |
Khu vực đổ bộ |
Tâm bão đi qua | Thời gian vào bờ |
Cấp gió lúc đổ bộ |
Cấp bão mạnh nhất trên biển |
Các khu vực ảnh hưởng | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tỉnh | Trạm khí tượng/thủy văn gần bão nhất | |||||||
1 | Choi-wan | Ra khỏi biển Đông (04/06) |
- | - | - | - | Cấp 8 | - |
2 | Koguma | Bắc Trung Bộ | Thanh Hóa | Sầm Sơn | 13/06 | Cấp 9 | Cấp 9[2] | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
3 | Cempaka | Bắc Bộ (trước đó đổ bộ vào miền Nam Trung Quốc) |
Quảng Ninh | Móng Cái (phía Đông Nam trạm) |
23/07 | Cấp 6 | Cấp 12 | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ |
4 | Lupit | Miền Nam Trung Quốc (lần 2: Đài Loan và ra khỏi biển Đông ngày 06/08) |
- | - | 05/08 | Cấp 9 | Cấp 9 | Bắc Bộ (gián tiếp gây mưa từ vùng hội tụ gió tiền thân của bão từ đêm 31/07 – 02/08) |
5 | Conson | Yếu thành vùng thấp ở vùng biển ven bờ Trung Trung Bộ[3] |
Quảng Ngãi (không vào đất liền) |
Đảo Lý Sơn[nb 1] | 12/09 | Cấp 6 | Cấp 10 | Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ Bắc Tây Nguyên |
6 | Dianmu | Trung Trung Bộ | Quảng Nam | Tam Kỳ (phía Bắc trạm)[nb 2] |
23/09 | Cấp 7 | Cấp 8 | Tây Nguyên Nam Trung Bộ Trung Trung Bộ |
7 | Lionrock | Bắc Bộ | Thái Bình | Ba Lạt (Huyện Tiền Hải) |
10/10 | Cấp 6 | Cấp 8 | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
8 | Kompasu | Bắc Trung Bộ Yếu thành vùng thấp |
Thanh Hóa | Nghi Sơn | 14/10 | <Cấp 6 | Cấp 11 | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
9 | Rai | Tan ở Bắc Biển Đông ngày 21/12 |
- | - | - | - | Cấp 16 | Trung Trung Bộ Nam Trung Bộ |
ATNĐ | ||||||||
ATNĐ 01 tháng 7 |
08W Số hiệu JTWC |
Bắc Trung Bộ Yếu thành vùng thấp |
Thanh Hoá | Sầm Sơn | 08/07 | <Cấp 6 | Cấp 7 | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
ATNĐ 02 tháng 7 |
Emong (tên địa phương Philippines) |
Tan ở Đông Bắc Biển Đông ngày 06/07 |
- | - | - | - | Cấp 6 | - |
ATNĐ tháng 10 |
26W Số hiệu JTWC |
Nam Trung Bộ | Khánh Hòa | Nha Trang | 27/10 | Cấp 6 | Cấp 7 | Trung Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ |
Mùa bão trên biển Đông bắt đầu vào ngày 03/6, thời điểm tương đương TBNN, khi cơn bão Choi-wan đi vào biển Đông trở thành cơn bão số 1, tuy nhiên chỉ tồn tại trên biển Đông khoảng 1,5 ngày trước khi ra khỏi biển Đông. Một tuần sau đó, một vùng áp thấp mạnh lên thành ATNĐ trên biển Đông, khi tiến sát Vịnh Bắc Bộ đã mạnh lên thành bão số 2 (Koguma) vào chiều ngày 12/06. Sau khoảng 18h tồn tại ở cấp bão, bão số 2 đã đổ bộ vào phía Bắc tỉnh Thanh Hoá và suy yếu nhanh, gây mưa to, dông lốc, gió giật mạnh cho Bắc Bộ và Trung Bộ kèm theo một số thiệt hại trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp tại các tỉnh phía Bắc nước ta và các địa phương tổ chức thi tuyển vào lớp 10. Tháng 7 năm 2021, bão trên biển Đông hoạt động mạnh dần với 1 cơn bão và 2 áp thấp nhiệt đới. Áp thấp nhiệt đới số 01 tháng 7 (số hiệu của Mỹ là 08W) ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ trong thời gian diễn ra kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông, lần đầu tiên từ khi đất nước thống nhất năm 1975. Cơn bão số 3 (Cempaka) mạnh lên cấp 12 ngay trên biển Đông, đổ bộ vào Quảng Đông (Trung Quốc), sau đó đi sang Quảng Tây, suy yếu thành áp thấp nhiệt đới, đi vào phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh (thành phố Móng Cái) và vòng xuống Vịnh Bắc Bộ, đi dọc theo đường bờ biển từ Quảng Ninh đến Hà Tĩnh (với khoảng cách so với bờ trên dưới 100 km) và gây mưa lớn cho các tỉnh Bắc Bộ và từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên-Huế với lượng mưa dao động 100-300mm, kèm theo một số thiệt hại về tài sản.
Tháng 8/2021 mùa bão khá im ắng, khi chỉ xuất hiện cơn bão số 4 (Lupit) nhưng đổ bộ vào Trung Quốc. Từ giữa tháng 9 đến cuối tháng 10 năm 2021, 4 cơn bão và 1 áp thấp nhiệt đới xuất hiện trên biển Đông và ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền nước ta, gây thời tiết xấu cho các tỉnh Trung Bộ. Bão số 5 (Conson) tuy không đổ bộ trực tiếp vào đất liền, cùng với bão số 6 (Dianmu) đổ bộ vào Quảng Nam sau đó, đã mang mưa lớn cho các tỉnh miền Trung, gây nên một số tổn thất về tài sản trong bối cảnh đợt dịch Covid-19 thứ 4 đang bùng phát khá mạnh tại các tỉnh này. Đầu tháng 10, bão số 7 (Lionrock) đổ bộ trái mùa vào các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ (tỉnh Thái Bình); ngay sau đó bão số 8 (Kompasu) suy yếu trên vùng biển gần bờ từ Nam Định đến Thanh Hóa, kết hợp không khí lạnh, đã gây ra gió mạnh và mưa lớn trên diện rộng cho các tỉnh Bắc Bộ và các tỉnh Trung Bộ (riêng đối với các tỉnh Bắc Bộ, đây là lượng nước rất quan trọng nhằm bù đắp một phần lượng mưa thiếu hụt trong suốt các tháng mùa mưa trước đó nhưng mưa ít). Cuối tháng 10, xuất hiện áp thấp nhiệt đới trên biển Đông, đổ bộ vào Khánh Hòa. Các xoáy thuận trong tháng 10 kết hợp gió Đông Bắc và nhiễu động trong đới gió Đông trên cao, đã gây ra mưa và lũ cho các tỉnh miền Trung (tuy không khốc liệt, cực đoan, dồn dập như năm 2020).
Tháng 11 năm 2021 không xuất hiện bất kỳ một xoáy thuận nhiệt đới nào trên biển Đông và là lần đầu tiên xuất hiện năm La Nina nhưng lại không có xoáy thuận nhiệt đới trên biển Đông trong tháng 11. Tháng 12 năm 2021, siêu bão Rai đi vào biển Đông và trở thành cơn bão số 9, tiếp tục mạnh lên trở thành một trong những cơn bão mạnh nhất trong lịch sử trên biển Đông; cũng như cơn bão mạnh nhất trong tháng 12 trên biển Đông kể từ khi có số liệu quan trắc. Bão Rai không ảnh hưởng trực tiếp, cũng như không đổ bộ vào đất liền nước ta. Song rìa Tây bão tác động gián tiếp, kết hợp không khí lạnh vẫn gây mưa vừa, mưa to và gió giật mạnh cấp 6-7 ở ven biển các tỉnh Trung và Nam Trung Bộ. Đặc biệt trên biển bão đã gây gió mạnh 46 m/s, giật 57 m/s (cấp 14 giật cấp 17) và làm vặn gãy 2 cột đo gió của trạm Khí tượng Hải văn Song Tử Tây (quần đảo Trường Sa), cũng như làm đổ nhiều cây xanh trên đảo. Đây cũng là cơn bão kết thúc mùa bão năm 2021 trên biển Đông.
Tóm lại, năm 2021 mùa bão hoạt động không mạnh và dồn dập như năm 2020 với 9 cơn bão và 3 áp thấp nhiệt đới, tương đương trung bình nhiều năm (12 cơn). Thời điểm bắt đầu mùa bão năm 2021 là ngày 03/6, tương đương so với mốc trung bình nhiều năm và kết thúc muộn (ngày 20/12); cường độ của chúng, trừ bão số 3 và bão số 9, hầu hết là không quá mạnh. Thậm chí, các cơn bão đổ bộ trực tiếp vào đất liền nước ta đều không quá cấp 9. Mạnh nhất khi vào bờ là cơn bão số 2 ở Thanh Hóa với sức gió cấp 9, giật cấp 10 (ghi nhận tại Văn Lý), các cơn còn lại chủ yếu cấp 6-7. Năm 2021 có 4 cơn bão, áp thấp nhiệt đới đổ bộ trực tiếp vào đất liền nước ta là bão số 2, bão số 6, bão số 7 và ATNĐ tháng 10. Ngoài ra, bão số 3, bão số 5, bão số 8 và ATNĐ 1 tháng 7, dù suy yếu trước khi tiếp cận bờ biển Việt Nam hay đi vòng từ phía Nam Trung Quốc xuống, không đổ bộ thẳng vào nước ta, song chúng vẫn ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền các tỉnh ven biển Bắc và Trung Bộ. Bão số 9 ảnh hưởng gián tiếp đến đất liền Trung và Nam Trung Bộ. Như vậy, có 9/12 cơn bão, ATNĐ trong năm 2021 có ảnh hưởng đến đất liền nước ta (8 trực tiếp, 1 gián tiếp). Hướng di chuyển chủ yếu là hướng Tây Tây Bắc. Trong đó chia làm 3 chùm chính:
Theo báo cáo của Tổng cục Phòng, chống thiên tai, tính đến ngày 20/12/2021, thiên tai năm 2021 đã làm 108 người chết và mất tích, bằng 46% trung bình 10 năm vừa qua và thấp nhất trong 30 năm vừa qua, thiệt hại ước tính trên 4.970 tỷ đồng, bằng 22% so với trung bình 10 năm vừa qua (Trung bình 10 năm 2012 - 2021, có 230 người chết, mất tích thiệt hại kinh tế: 22.632 tỷ đồng). Thiệt hại về người do bão năm 2021 là 5 người; giảm thiểu so với một số năm bão lớn gần đây như năm 2017: 43 người, năm 2020: 25 người.
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 16 tháng 2 – 23 tháng 2 |
---|---|
Cường độ cực đại | 75 km/h (45 mph) (10-min) 996 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - 991 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 23 m/s (Cấp 9) - 990 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 21 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Philippines: 95 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Bão cuồng phong dữ dội (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 12 tháng 4 – 30 tháng 4 |
---|---|
Cường độ cực đại | 220 km/h (140 mph) (10-min) 895 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 17 (215 km/h) - Siêu bão[4]
Cấp bão Nhật Bản: 120 kt - 895 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 170 kt- 882 hPa - Siêu bão cuồng phong cấp 5
Cấp bão Đài Loan: 55 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 240 km/h - Siêu bão
Cấp bão Trung Quốc: 72 m/s (trên cấp 17) - 895 hPa - Siêu bão
Cấp bão Philippines: 215 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Macao: 220 km/h - Siêu bão nhiệt đới
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 12 tháng 5 – 14 tháng 5 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1004 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 6 (45 km/h) - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1004 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - 1002 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Vào ngày 11 tháng 5, JTWC đã ghi nhận một khu vực đối lưu dai dẳng trên Biển Philippines, cách Palau khoảng 184 nmi (341 km) về phía tây. JTWC đã ban hành TCFA cho đối lưu vào ngày 12 tháng 5, vì nó tiếp tục phát triển trong môi trường có sức cắt gió dọc thấp và nhiệt độ bề mặt biển ấm. Chỉ ba giờ sau, cơ quan này nhận ra rằng khu vực đối lưu đã nhanh chóng hợp nhất thành một áp thấp nhiệt đới và gán cho nó với số hiệu là 03W. Cũng trong khoảng thời gian đó, JMA cũng đã công nhận cơn bão là một áp thấp nhiệt đới khi nó đang ở phía đông Mindanao. Kể từ khi cơn bão phát triển trong khu vực của Philippines Trách nhiệm, các Pagasa ngay lập tức đặt tên cho cơn bão Crising một lần cơ quan công nhận nó như là một áp thấp nhiệt đới là tốt, và sau đó đưa ra tín hiệu cảnh báo số 2 cho các khu vực ở Mindanao. Vào những giờ đầu ngày 13 tháng 5, JTWC đã nâng cấp hệ thống này thành một cơn bão nhiệt đới, và PAGASA sẽ tuân theo vài giờ sau đó. Cuối ngày hôm đó, trung tâm hoàn lưu tầng thấp của Caging bị lộ ra do gió cắt, và nó bị mất tổ chức. Vào lúc 8:20 sáng Philippines (12:20 UTC), Cashing đổ bộ vào Baganga, Davao Oriental như một cơn bão nhiệt đới đang suy yếu. Nó nhanh chóng suy thoái ngay khi đổ bộ vào đất liền, với cả JTWC và PAGASA đều hạ cấp nó thành áp thấp nhiệt đới lúc 15:00 UTC. Vào lúc 03:00 UTC vào ngày hôm đó, PAGASA báo cáo rằng hệ thống đã suy thoái thành một khu vực có áp suất thấp trong vùng lân cận của Piagapo ở Lanao del Sur, do đó nâng tất cả các tín hiệu cảnh báo trên Mindanao và phát đi tín hiệu cuối cùng của chúng. tham mưu. Vào ngày 14 tháng 5, hệ thống này tan biến trên Biển Sulu, và cả JMA và JTWC đều đưa ra lời khuyên cuối cùng về cơn bão.
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 29 tháng 5 – 05 tháng 6 |
---|---|
Cường độ cực đại | 75 km/h (45 mph) (10-min) 998 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 8 (65 km/h) - Bão (bão thường)[4]
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 998 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 20 m/s (Cấp 8) - 995 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 20 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 10 tháng 6 – 14 tháng 6 |
---|---|
Cường độ cực đại | 65 km/h (40 mph) (10-min) 996 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 9 - Bão (bão thường)[4][5]
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 18 m/s -Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 20 m/s (Cấp 8) - 992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 18 m/s - Bão nhiệt đới
Bão cuồng phong mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 19 tháng 6 – 28 tháng 6 |
---|---|
Cường độ cực đại | 120 km/h (75 mph) (10-min) 980 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 65 kt - 980 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 65 kt - 987 hPa - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Đài Loan: 33 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 120 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Trung Quốc: 33 m/s (Cấp 12) - 980 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 27 m/s - Bão nhiệt đới trung bình
Vào lúc 00:00 UTC ngày 18 tháng 6, JTWC bắt đầu theo dõi một khu vực đối lưu rộng gần 250 km (160 mi) về phía nam-tây nam của Pohnpei. Hệ thống này vẫn yếu khi nó di chuyển về phía tây bắc trong một môi trường thuận lợi để tăng cường thêm, được đặc trưng bởi nhiệt độ bề mặt biển ấm, sức cắt gió từ thấp đến trung bình và dòng chảy tốt; vùng nhiễu động vẫn yếu khi nó di chuyển về phía tây bắc. JTWC ban hành TCFA trên hệ thống hai ngày sau đó, mặc dù hệ thống vẫn vô tổ chức. JMA đã nâng cấp hệ thống lên thành áp thấp nhiệt đới lúc 00:00 UTC ngày 21 tháng 6. Trong khi đó, JTWC chỉ định nó là 06W trong lần tư vấn đầu tiên của họ về hệ thống, với LLCC lộ ra rõ ràng trên hình ảnh vệ tinh do gió cắt vừa phải, được gây ra bởi một rãnh nhiệt đới trên tầng đối lưu ở phía bắc của nó. Đến 21 giờ ngày 21 tháng 6, 06W đi qua gần nhất đến phía nam-tây nam của Guam, tiếp tục theo dõi phía tây bắc. Vào ngày 22 tháng 6, lúc 06:00 UTC, JTWC đã nâng cấp hệ thống thành một cơn bão nhiệt đới khi nó tiếp tục di chuyển khỏi Guam. JMA đã theo dõi và nâng cấp hệ thống này thành một cơn bão nhiệt đới, vào ngày 23 tháng 6 lúc 00:00 UTC, và đặt tên cho nó là Champi. Vào lúc 18:00 UTC, JMA đã nâng cấp cơn bão thành một cơn bão nhiệt đới dữ dội khi nó chuyển hướng về phía tây bắc. Tại thời điểm này, hình ảnh quét vi sóng của Champi cho thấy một đặc điểm mắt nổi lên trong hệ thống; tuy nhiên, điều này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn vì không khí khô tiếp tục ảnh hưởng đến cơn bão từ phía tây. Ngoài ra, dòng chảy hướng cực trên hệ thống vẫn yếu vào ngày 24 tháng 6, hạn chế Champi phát triển đáng kể. Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, khi một rãnh sóng ngắn băng qua quần đảo Ryukyu, luồng gió đi ra ngày càng gia tăng trên cơn bão khiến cơn bão có thể mạnh thêm. Vào ngày 25 tháng 6, lúc 06:00 UTC, JMA chính thức tuyên bố cơn bão là một cơn bão. JTWC ngay sau đó đã nâng cấp nó thành bão cấp 1. Vào thời điểm này, một Champi quay theo hướng Bắc và Bắc-Tây Bắc, và sau đó đạt đến cường độ cực đại là 120 km/h (75 mph) gió duy trì tối đa trong mười phút với áp suất khí quyển tối thiểu là 980 hPa (28,94 inHg) vào lúc 21h. UTC vào ngày 25 tháng 6, tuy nhiên nó đã bị hạ cấp thành bão nhiệt đới một ngày sau đó. Cơn bão tiếp tục suy yếu khi di chuyển về phía các đảo của Nhật Bản, cho đến ngày 27 tháng 6, JMA đưa ra lời khuyên cuối cùng vào lúc 12:00 UTC khi hệ thống này trở thành mức thấp ngoại nhiệt đới. JTWC cũng đưa ra cảnh báo cuối cùng cho Champi vào lúc 09:00 UTC, cùng ngày.
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 3 tháng 7 – 7 tháng 7 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1004 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 6 - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1004 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 15 m/s (Cấp 7) - 1004 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 15 m/s - Áp thấp nhiệt đới
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 3 tháng 7 – 9 tháng 7 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1000 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 6~7 - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1000 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - 1003 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 15 m/s (Cấp 7) - 1000 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Khi vào Vịnh Bắc Bộ, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp của Hải quân Hoa Kỳ mới công nhận là áp thấp nhiệt đới và đặt số hiệu 08W, và chỉ đạt cường độ của ATNĐ (25 kt ~ 45 km/h) ở thời điểm 12h (UTC, 19h Việt Nam) ngày 07/07. Sau đó, Mỹ xác định áp thấp nhiệt đới đã đi vào Thái Bình và chỉ còn là vùng thấp (lệch khoảng 90–100 km so với thực tế đi vào Sầm Sơn, Thanh Hóa). Trong khi đó, Nhật Bản không hề phát tin dự báo nào về ATNĐ này (cũng như ATNĐ Emong ở trên).
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 15 tháng 7 – 29 tháng 7 |
---|---|
Cường độ cực đại | 155 km/h (100 mph) (10-min) 950 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 80 kt - 950 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 95 kt - 951 hPa - Bão cuồng phong cấp 2
Cấp bão Hồng Kông: 145 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 43 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 40 m/s - Bão mạnh
Cấp bão Trung Quốc: 42 m/s (Cấp 14) - 955 hPa - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Macau: 148 km/h (Cấp 13) - 955 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Philippines: 150 km/h - Bão cuồng phong
Bão cuồng phong mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 17 tháng 7 – 24 tháng 7 |
---|---|
Cường độ cực đại | 130 km/h (80 mph) (10-min) 980 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 12 (120 km/h) - Bão rất mạnh[4]
Cấp bão Nhật Bản: 70 kt - 980 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 80 kt - 965 hPa - Bão cuồng phong cấp 1
Câp bão Trung Quốc: 38 m/s (Cấp 13) - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 120 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 33 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Macao: Cấp 13 (150 km/h) - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 27 m/s - Bão nhiệt đới trung bình
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão cận nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 22 tháng 7 – 29 tháng 7 |
---|---|
Cường độ cực đại | 75 km/h (45 mph) (10-min) 990 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 990 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt- 982 hPa - Bão cận nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 20 m/s (Cấp 8) - 995 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 23 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 1 tháng 8 – 7 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1004 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1004 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - 1002 hPa - Bão nhiệt đới
Vào ngày 1 tháng 8, JTWC đã ban hành TCFA về sự xáo trộn ở vùng biển mở phía tây Thái Bình Dương vì nó có một trung tâm hoàn lưu tầng thấp và đối lưu sâu chưa được xác định rõ. Vào ngày hôm sau, lúc 00:00 UTC, JMA công nhận nó là một áp thấp nhiệt đới vì nó nằm gần Minami-Tori-shima. Nó đang di chuyển về phía bắc với vận tốc 10 kn (19 km/h; 12 mph). Vài giờ sau, JTWC nâng cấp hệ thống lên thành áp thấp nhiệt đới, đặt tên cho nó là 12W. Vào thời điểm đó, LLC của cơn bão vẫn tiếp tục lộ ra và vùng đối lưu hoặc giông bão mạnh nhất của nó đã bị dịch chuyển về phía tây. Một rặng núi cận nhiệt đới phân lớp sâu ở phía đông đã hướng dẫn áp thấp nhiệt đới di chuyển về phía Bắc-Tây Bắc trong khi ở gần một con quay gió mùa. Mặc dù nằm trong một môi trường thuận lợi để tăng cường thêm, một hệ thống khác ở phía nam tương tác chậm với vùng áp thấp, khiến cường độ tổng thể của cơn bão yếu đi. Nó đạt tới đỉnh cường độ vào ngày hôm đó, với sức gió 35 kn (65 km/h; 40 mph) theo cả ước tính của JMA và JTWC và áp suất khí quyển tối thiểu là 1004 hPa (29,65 inHg). Vào ngày hôm sau, JTWC đưa ra bản tin cuối cùng cho hệ thống khi đối lưu của áp thấp nhiệt đới bị cắt về phía Đông Bắc. Trong khi đó, JMA tiếp tục theo dõi hệ thống cho đến khi nó tan biến vào ngày hôm đó, lúc 18:00 UTC.
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 2 tháng 8 – 9 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 985 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 9 (83 km/h) - Bão (bão thường)
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt - 985 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - 976 hPa- Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc - 23 m/s (Cấp 9) - 985 hPa - Bão nhiệt đới (extratropical: 982 hPa)
Cấp bão Hồng Kông: 85 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 23 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 23 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Philippines: 95 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 3 tháng 8 – 17 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 95 km/h (60 mph) (10-min) 980 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 50 kt - 980 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - 977 hPa- Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 23 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 85 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 25 m/s (Cấp 10) - 985 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Philippines: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 3 tháng 8 – 12 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 100 km/h (65 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 55 kt - 992 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - 985 hPa- Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 25 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Trung Quốc: 25 m/s (Cấp 10) - 990 hPa - Bão nhiệt đới
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 6 tháng 8 – 31 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 994 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt - 994 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - 993 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 25 m/s (cấp 10) - 993 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Đài Loan: 28 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hồng Kông: 25 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 28 m/s - Bão nhiệt đới rất mạnh
Cấp bão Philippines: 95 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 1 tháng 9 – 5 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1002 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1002 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - 1001 hPa - Bão nhiệt đới
Vào ngày 1 tháng 9 lúc 00:00 UTC, JMA nhận thấy một áp thấp nhiệt đới gần Đảo Wake. Vào lúc 06:00 UTC, JTWC đã tạo ra cơ hội hình thành trung bình cho hệ thống trên cùng một khu vực, mặc dù được phân loại là áp thấp cận nhiệt đới, vì nó đã phát triển một trung tâm hoàn lưu mức thấp được xác định rõ ràng, lộ ra một phần. Vào lúc 20:00 UTC, JTWC đã cấp TCFA cho hệ thống và vào lúc 03:00 UTC ngày hôm sau, nó được nâng cấp thành áp thấp nhiệt đới và được chỉ định là 17W, là mức thấp nhất của nó - trung tâm tuần hoàn cấp trở nên rõ ràng hơn nhưng vẫn bị lộ một phần. Hệ thống duy trì cấu trúc đối lưu xác định của nó, tuy nhiên vào lúc 09:00 UTC ngày 3 tháng 9, nó phải vật lộn để củng cố vì sự hiện diện của không khí khô khiến cấu trúc đối lưu của nó giảm đi. Vào lúc 21:00 UTC, JTWC đã đưa ra lời khuyên cuối cùng của mình khi luồng đối lưu còn lại của nó bị cắt bởi những đợt gió tây tới. Vào lúc 12:00 UTC ngày 4 tháng 9, JMA ngừng theo dõi hệ thống.
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 4 tháng 9 – 13 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 100 km/h (65 mph) (10-min) 985 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 10 (102 km/h) - Bão mạnh
Cấp bão Nhật Bản: 55 kt - 985 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 65 kt - 980 - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Trung Quốc: 28 m/s (cấp 10) - 988 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Đài Loan: 26 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 95 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Ma Cao: 95 km/h - Bão nhiệt đới mạnh
Cấp bão Hàn Quốc: 23 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Philippines: 120 km/h - Bão cuồng phong
Bão cuồng phong dữ dội (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 5 tháng 9 – 27 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 215 km/h (130 mph) (10-min) 905 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 115 kt - 905 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 155 kt - 902 hPa - Siêu bão cuồng phong cấp 5
Cấp bão Trung Quốc: 68 m/s (trên cấp 17)- 905 hPa - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 58 m/s - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 240 km/h - Siêu bão
Cấp bão Hàn Quốc: 53 m/s - Bão rất mạnh
Cấp bão Philippines: 265 km/h - Siêu bão cuồng phong
Bão cuồng phong dữ dội (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 21 tháng 9 – 7 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 195 km/h (120 mph) (10-min) 910 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 105 kt - 910 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 140 kt -916 - Siêu bão cuồng phong cấp 5
Cấp bão Trung Quốc: 60 m/s (Cấp 17) - 920 hPa - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 58 m/s - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Philippines: 215 km/h - Siêu bão cuồng phong
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 21 tháng 9 – 25 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 65 km/h (40 mph) (10-min) 1000 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 8 (65 km/h) - Bão (bão thường)
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 1000 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt -1001 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 18 m/s (Cấp 8) - 998 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Macao: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 2 tháng 10 – 11 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 65 km/h (40 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 8 (65 km/h) - Bão (bão thường)
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - 989 - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 18 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Trung Quốc: 20 m/s (Cấp 8) - 992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Ma Cao: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 7 tháng 10 – 15 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 100 km/h (65 mph) (10-min) 975 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 11 (115 km/h) - Bão mạnh
Cấp bão Nhật Bản: 55 kt - 975 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 60 kt - 979 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 110 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Trung Quốc: 33 m/s (Cấp 12) - 970 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 120 km/h (Cấp 12) - Bão cuồng phong
Cấp bão Macao: 105 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 30 m/s - Bão nhiệt đới trung bình
Cấp bão Philippines: 110 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Áp thấp nhiệt đới (PAGASA) | |
Thời gian tồn tại | 7 tháng 10 – 8 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | <55 km/h (35 mph) (10-min) 1002 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 25 kt - 1002 hPa - Áp thấp nhiệt đới.
Cấp bão Philipines: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới.
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 8 tháng 10 – 19 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 95 km/h (60 mph) (10-min) 996 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 50 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - 988 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 33 m/s (cấp 12) - 975 hPa - Bão cuồng phong
Bão cuồng phong mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 22 tháng 10 – 30 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 140 km/h (85 mph) (10-min) 965 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 75 kt - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 85 kt -968 hPa - Bão cuồng phong cấp 2
Cấp bão Trung Quốc: 40 m/s (Cấp 13) - 970 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 40 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 32 m/s - Bão cuồng phong
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 22 tháng 10 – 28 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | <55 km/h (35 mph) (10-min) 1006 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 7 (56 km/h) - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Nhật Bản: 25 kt - 1006 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt -1000 hPa- Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 15 m/s (Cấp 7) - 1002 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Macao: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 26 tháng 11 – 5 tháng 12 |
---|---|
Cường độ cực đại | 185 km/h (115 mph) (10-min) 925 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 100 kt - 925 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 130 kt - 928 hPa - Siêu bão cuồng phong cấp 4
Cấp bão Trung Quốc: 55 m/s (Cấp 16) - 940 hPa - Siêu bão
Cấp bão Đài Loan: 45 m/s - Bão cuồng phong
Bão cuồng phong dữ dội (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 10 tháng 12 – 22 tháng 12 |
---|---|
Cường độ cực đại | 195 km/h (120 mph) (10-min) 915 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: Cấp 16- Siêu bão
Cấp bão Nhật Bản: 105 kt - 915 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 150 kt- 908 hPa - Siêu bão cuồng phong cấp 5
Cấp bão Trung Quốc: 62 m/s (TrênCấp 17) - 915 hPa - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 51 m/s - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 185 km/h - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Philippines: 185 km/h - Siêu bão cuồng phong
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 13 tháng 12 – 18 tháng 12 |
---|---|
Cường độ cực đại | <55 km/h (35 mph) (10-min) 1006 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 25 kt - 1006 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - 1003 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Trong ngày 18 tháng 1, JMA báo cáo một áp thấp nhiệt đới đã hình thành về phía đông của Luzon, Philippines.[9] Tiền thân của áp thấp nhiệt đới mang những trận mưa rào và dông rải rác cho Mindanao, Palawan và Visayas vào ngày 18 tháng 1.[10] Áp thấp nhiệt đới cũng mang thời tiết mưa bão đến Luzon vào ngày 20 tháng 1. PAGASA cảnh báo người dân về khả năng xảy ra lũ quét và lở đất do lượng mưa lớn.[11] JMA đã ngừng cảnh báo lên hệ thống cùng ngày hôm đó.[12]
Vào ngày 9 tháng 3, một vùng áp thấp đã đi vào Khu vực trách nhiệm của Philippines, mặc dù nó không được cho là sẽ phát triển vào thời điểm đó.[13] Vào ngày 14 tháng 3, vùng áp thấp đã mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới trên biển Sulu trước khi nó nhanh chóng suy giảm trở lại thành một vùng áp thấp. Hệ thống mang lại những trận mưa nhẹ đến vừa phải trên các vùng của Philippines, với việc PAGASA khuyến cáo người dân về khả năng xảy ra lũ lụt và lở đất.[14]
Vào ngày 29 tháng 5, JTWC đã ban hành TCFA cho một vùng nhiễu động nhiệt đới có phạm vi khoảng 622 nmi (1.152 km; 716 mi) về phía đông nam của Guam, gần quần đảo Nomoi. Hệ thống dần dần phát triển khi nó trải qua nhiệt độ bề mặt biển ấm áp và sức cắt gió dọc thấp. Vào ngày hôm sau lúc 00:00 UTC, JMA đã công nhận hệ thống này là một áp thấp nhiệt đới.[15] Cùng ngày, JTWC đã hủy bỏ TCFA đối với hệ thống do cấu trúc của nó bị xuống cấp, với lần cuối cùng JMA công nhận hệ thống là một áp thấp nhiệt đới vào ngày 1 tháng 6 lúc 18:00 UTC.[16]
Vào ngày 29 tháng 6, một vùng áp thấp hình thành cách Guam 425 nmi (787 km; 489 mi) với hình ảnh vệ tinh tiết lộ rằng hệ thống đã có đối lưu sâu với hoàn lưu ở mức thấp yếu.[17] Trong môi trường thuận lợi với độ cắt gió từ thấp đến trung bình, và nhiệt độ bề mặt biển ấm áp, hệ thống dần dần trở nên có phats triển hơn với một hoàn lưu ở mức thấp xác định hơn.[18] Vào ngày 30 tháng 6, JTWC đã ban hành TCFA cho hệ thống.[19] Vào ngày 1 tháng 7, hình ảnh vệ tinh đa mặt ảnh động cho thấy một hoàn lưu ở mức thấp rất rộng và không rõ ràng với đối lưu bị cắt về phía nam tây nam của vùng nhiễu động, điều này đã khiến JTWC phải hủy bỏ TCFA của hệ thống và hạ cấp cơ hội phát triển của nó trong ngày hôm sau để thấp. JMA không còn coi đây là một áp thấp nhiệt đới trong các khuyến cáo tóm tắt về nhiễu động nhiệt đới của họ vào cùng ngày.[20]
Vào ngày 19 tháng 7, lúc 00:00 UTC, một áp thấp nhiệt đới đã được hình thành ở gần 29°00′B 164°00′Đ / 29°B 164°Đ, đang di chuyển về phía Bắc với tốc độ 10 kn (20 km/h; 10 mph) theo JMA. Nó kéo dài trong hai ngày cho đến ngày 21 tháng 7, nó trở thành mức thấp nhất còn sót lại vào lúc 00:00 UTC.
Vào ngày 27 tháng 7, lúc 23:45 UTC, JMA đã ghi nhận một áp thấp nhiệt đới gần 29°00′B 152°00′Đ / 29°B 152°Đ, đang di chuyển chậm về phía bắc. Do tương tác gần với bão In-fa (lúc đã suy yếu) nên không đi được quãng đường dài. ATNĐ này tan hoàn toàn vào lúc 02:30 UTC, ngày 29 tháng 7.
Vào ngày 28 tháng 7, lúc 20:00 UTC, JMA đã ghi nhận một áp thấp nhiệt đới gần 28°00′B 142°00′Đ / 28°B 142°Đ, đang di chuyển về phía đông đông bắc rồi đổi thành hướng bắc. JTWC đã gán số hiệu cho áp thấp này là 95W. Ban đầu nó được nhận định rằng nó có thể mạnh lên thành xoáy thuận nhiệt đới trong vòng 24 giờ tới. Tuy nhiên đến gần Nhật Bản thì cơn nay gặp phải những yếu tố bất lợi, gió cắt mạnh nên không thể mạnh lên được. Vì thế áp thấp nhiệt đới suy yếu dần. Khi di chuyển đến gần Hokkaidō thì ATNĐ tan, vào lúc 23:00 UTC ngày 1/8.
Vào ngày 31 tháng 7, lúc 18:00 UTC, JMA đã ghi nhận thêm một áp thấp nhiệt đới hình thành ở gần Nhật Bản. Đến ngày 1 tháng 8, lúc 05:30 UTC, JTWC đã ban hành TCFA cho hệ thống vì nó có một vòng tuần hoàn mức thấp lộ ra với sự đối lưu vô tổ chức liên tục. Sau đó, cơ quan này đã hủy bỏ cảnh báo vào ngày hôm sau vì nó chỉ còn lại một ít luồng đối lưu và nó ít di chuyển hơn. Nó đổ bộ vào Osaka 1 ngày trước khi tan.
Vào ngày 1 tháng 8, lúc 07:00 UTC, JMA lại ghi nhận thêm một áp thấp nhiệt đới nữa xuất hiện trên Quần đảo Ryukyu. Sau đó, nó di chuyển về hướng Nhật Bản rồi vòng lại 180°. Nó di chuyển lòng vòng trong khu vực Quần đảo Ryukyu rồi tan nhanh vào lúc 22:00 UTC ngày 3 tháng 8.
Vào lúc 01:00 UTC, ngày 7 tháng 9, JMA ghi nhận một áp thấp nhiệt đới gần đảo Hải Nam, Trung Quốc. Sau đó, áp thấp này đã di chuyển về phía Nghệ An - Hà Tĩnh khiến Bắc Bộ và Thanh Hóa - Thừa Thiên-Huế phải hứng chịu những trận mưa to trong ngày 08/9. Nó được JMA nhìn thấy lần cuối vào tối 8/9, sau khi đi vào Hà Tĩnh sáng cùng ngày, tan trên khu vực Trung Lào. Trung tâm Dự báo KTTV Trung ương chỉ coi nó là nhiễu động gió Đông, những luồng gió Đông Nam đem theo mây ẩm hoạt động mạnh.
Ngày 28/9, một vùng thấp xuất hiện ngay gần bão Mindulle. Vùng thấp di chuyển về hướng Đông và gần như đứng một chỗ. Ngày 29, vùng thấp bị bão Mindulle tác động và càng bị hút lại gần Mindulle hơn. Lúc 11h45 UTC ngày 1/10, vùng thấp suy yếu và biến thành tàn dư trôi về bão Mindulle đang suy yếu.
Đây là bảng của tất cả các cơn bão đã hình thành trong mùa bão năm 2021 ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Nó bao gồm tên, ngày tháng, sức gió, áp suất, khu vực đổ bộ, thiệt hại và số người chết được biểu thị bằng chữ in đậm. Cái chết trong ngoặc đơn thường là bổ sung hoặc gián tiếp (một ví dụ về cái chết gián tiếp là một tai nạn giao thông), nhưng vẫn sẽ liên quan đến cơn bão đó. Thiệt hại và tử vong bao gồm tổng số người bị tai nạn, sóng hoặc lũ lụt... và tất cả các con số thiệt hại là vào năm 2021 được tính bằng USD (những sức gió dưới đây được tính bằng sức gió 10 phút của JMA):
Tên bão | Thời gian hoạt động |
Cấp độ cao nhất | Sức gió duy trì |
Áp suất | Khu vực tác động | Tổn thất (USD) |
Số người chết | Tham khảo |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
JMA TD 01 | 18 tháng 1 – 20 tháng 1 | Vùng áp thấp | Không xác định | 1008 hPa (29.77 inHg) | Philippines | $13,2 triệu | 3 | |
Dujuan (Auring) | 16 tháng 2 – 23 tháng 2 | Bão nhiệt đới | 75 km/h (45 mph) | 996 hPa (29.41 inHg) | Palau, Philippines | $3,29 triệu | 1 | |
JMA TD 03 | 09 tháng 3 – 15 tháng 3 | Vùng áp thấp | Không xác định | 1006 hPa (29.71 inHg) | Philippines | None | 0 | |
Surigae (Bising) | 12 tháng 4 – 30 tháng 4 | Siêu bão cuồng phong | 220 km/h (140 mph) | 895 hPa (26.43 inHg) | Palau, Philippines, Quần đảo Caroline, Nhật Bản, Sulawesi | $10,5 triệu | 10 | |
03W (Crising) | 12 tháng 5 – 14 tháng 5 | Áp thấp nhiệt đới | 55 km/h (35 mph) | 1004 hPa (29.65 inHg) | Palau, Philippines | $486 nghìn | 0 | |
JMA TD 06 | 27 tháng 5 – 01 tháng 6 | Vùng áp thấp | Không xác định | 1006 hPa (29.71 inHg) | Không có | None | ||
Choi-wan (Dante) - Bão số 1 | 29 tháng 5 – 05 tháng 6 | Bão nhiệt đới | 75 km/h (45 mph) | 998 hPa (29.47 inHg) | Palau, Philippines, Đài Loan, Nhật Bản | $6,39 triệu | 11 | |
Bão số 2 (Koguma) | 11 tháng 6 – 13 tháng 6 | 65 km/h (40 mph) | 996 hPa (29.41 inHg) | Nam Trung Quốc, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ | $9,87 triệu | 1 | ||
Champi | 21 tháng 6 – 27 tháng 6 | Bão cuồng phong | 120 km/h (75 mph) | 980 hPa (28.94 inHg) | Quần đảo Mariana | None | 0 | |
JMA TD 10 | 29 tháng 6 – 01 tháng 7 | Vùng áp thấp | Không xác định |
1006 hPa (29.71 inHg) |
Không có | |||
07W (Emong) | 03 tháng 7 – 06 tháng 7 | Áp thấp nhiệt đới | 55 km/h (35 mph) | 1004 hPa (29.65 inHg) | Philippines | |||
08W | 05 tháng 7 – 08 tháng 7 |
1000 hPa (29.53 inHg) |
Bắc Bộ, Philippines, Huyện đảo Hoàng Sa, đảo Hải Nam | |||||
In-fa (Fabian) | 16 tháng 7 – 29 tháng 7 | Bão cuồng phong rất mạnh | 155 km/h (90 mph) |
950 hPa (28.05 inHg) |
Trung Quốc | $1 tỷ | 6 | |
Bão số 3 (Cempaka) | 17 tháng 7 – 25 tháng 7 | Bão cuồng phong | 130 km/h (80 mph) |
980 hPa (28.94 inHg) |
Trung Nam Trung Quốc, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ | $4,25 triệu | 3 | |
JMA TD 15 | 19 tháng 7 – 20 tháng 7 | Vùng áp thấp | Không xác định |
1012 hPa (29.88 inHg) |
Không có | None | 0 | |
Nepartak | 22 tháng 7 – 28 tháng 7 | Bão cận nhiệt đới | 75 km/h (45 mph) |
990 hPa (29.23 inHg) |
Honshū | |||
JMA TD 17 | 27 tháng 7 – 28 tháng 7 | Vùng áp thấp | Không xác định |
1004 hPa (29.65 inHg) |
Không có | |||
JMA TD 18 | 28 tháng 7 – 01 tháng 8 |
996 hPa (29.41 inHg) |
Hokkaido | |||||
JMA TD 19 | 31 tháng 7 – 03 tháng 8 |
998 hPa (29.47 inHg) |
Osaka | |||||
JMA TD 20 | 01 tháng 8 – 03 tháng 8 |
996 hPa (29.41 inHg) |
Quần đảo Ryukyu, Đài Loan | |||||
12W | 02 tháng 8 – 06 tháng 8 | Áp thấp nhiệt đới | 55 km/h (35 mph) |
1004 hPa (29.65 inHg) |
Không có | |||
Lupit (Huaning) - Bão số 4 | 02 tháng 8 – 16 tháng 8 | Bão nhiệt đới | 85 km/h (50 mph) |
985 hPa (29.09 inHg) |
Bắc Bộ (gián tiếp), Trung Nam Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản | $227 triệu | 7 | |
Nida | 03 tháng 8 – 08 tháng 8 | Bão nhiệt đới dữ dội | 95 km/h (60 mph) |
992 hPa (29.29 inHg) |
Alaska | None | 0 | |
Mirinae (Gorio) | 03 tháng 8 – 10 tháng 8 |
980 hPa (28.94 inHg) |
Quần đảo Ryukyu, Đài Loan, Alaska, Miyakejima, Tây Canada | |||||
Omais (Isang) | 06 tháng 8 – 31 tháng 8 | Bão nhiệt đới | 85 km/h (50 mph) |
994 hPa (29.35 inHg) |
Quần đảo Marshall, Micronesia, Quần đảo Bắc Mariana, Guam, Quần đảo Ryukyu, Đảo Jeju, Hàn Quốc, Hokkaido, Viễn Đông Nga | |||
17W | 01 tháng 9 – 05 tháng 9 | Áp thấp cận nhiệt đới | 55 km/h (35 mph) |
1002 hPa (29.58 inHg) |
Không có | |||
Conson (Jolina) - Bão số 5 | 04 tháng 9 – 13 tháng 9 | Bão nhiệt đới dữ dội | 100 km/h (65 mph) |
985 hPa (29.09 inHg) |
Philippines, Huyện đảo Hoàng Sa, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Lào | $36,1 triệu | 22 | |
Chanthu (Kiko) | 05 tháng 9 – 27 tháng 9 | Siêu bão cuồng phong | 215 km/h (130 mph) |
905 hPa (26.72 inHg) |
Philippines, Đông Trung Quốc, Đài Loan, Quần đảo Ryukyu, Đảo Jeju, Nhật Bản | $748 nghìn | 0 | |
JMA TD 29 | 07 tháng 9 – 08 tháng 9 | Vùng áp thấp | Không xác định |
1004 hPa (29.65 inHg) |
Đảo Hải Nam, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ | None | ||
Mindulle | 21 tháng 9 – 07 tháng 10 | Siêu bão cuồng phong | 195 km/h (120 mph) |
910 hPa (26.87 inHg) |
Micronesia, Quần đảo Bắc Mariana, Nhật Bản, Viễn Đông Nga | Rất ít | ||
Bão số 6 (Dianmu) | 21 tháng 9 – 25 tháng 9 | Bão nhiệt đới | 65 km/h (40 mph) |
1000 hPa (29.53 inHg) |
Quần đảo Trường Sa, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Lào, Thái Lan | Không xác định | ||
JMA TD 32 | 27 tháng 9 – 01 tháng 10 | Vùng áp thấp | Không xác định |
1003 hPa (29.61 inHg) |
Không có | None | ||
Lionrock (Lannie) - Bão số 7 | 02 tháng 10 – 11 tháng 10 | Bão nhiệt đới | 65 km/h (40 mph) |
992 hPa (29.29 inHg) |
Palau, Philippines, Huyện đảo Hoàng Sa, Đảo Hải Nam, Bắc Bộ, Lào | $241 nghìn | 3 | |
Kompasu (Maring) - Bão số 8 | 07 tháng 10 – 15 tháng 10 | Bão nhiệt đới dữ dội | 100 km/h (65 mph) |
975 hPa (28.79 inHg) |
Philippines, Đảo Hải Nam, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ | $127 triệu | 44 | |
Nando | 07 tháng 10 – 08 tháng 10 | Vùng áp thấp | Không xác định |
1002 hPa (29.58 inHg) |
Không có | None | 0 | |
Namtheun | 08 tháng 10 – 19 tháng 10 | Bão nhiệt đới dữ dội | 100 km/h (65 mph) |
996 hPa (29.41 inHg) |
Tây Bắc Hoa Kỳ ven biển Thái Bình Dương, Alaska | |||
Malou | 22 tháng 10 – 30 tháng 10 | Bão cuồng phong | 140 km/h (85 mph) |
965 hPa (28.50 inHg) |
Quần đảo Ogasawara | |||
26W | 22 tháng 10 – 28 tháng 10 | Áp thấp nhiệt đới | Không xác định |
1006 hPa (29.71 inHg) |
Philippines, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ | |||
Nyatoh | 26 tháng 11 – 05 tháng 12 | Bão cuồng phong rất mạnh | 185 km/h (115 mph) | 925 hPa (27.32 inHg) | Quần đảo Bonin | |||
Rai (Odette) - Bão số 9 | 10 tháng 12 – 22 tháng 12 | Siêu bão cuồng phong | 195 km/h (120 mph) |
915 hPa (27.02 inHg) |
Quần đảo Caroline, Palau, Philippines, Quần đảo Trường Sa, Đảo Hải Nam, Trung Nam Trung Quốc, Ma Cao, Hồng Kông | $720 triệu | 408 | |
29W | 13 tháng 12 – 18 tháng 12 | Áp thấp nhiệt đới | Không xác định |
1006 hPa (29.71 inHg) |
Malaysia | $70 triệu | 27 | |
Tổng tỷ số mùa bão | ||||||||
41 xoáy thuận nhiệt đới (Surigae mạnh nhất) | 18 tháng 1 – 22 tháng 12 | 220 km/h (140 mph) | 895 hPa (26.43 inHg) | $2,77 tỷ | 554 |
Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực ở Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến cường độ bão nhiệt đới.[21] Các tên gọi do các thành viên của ESCAP/WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó.[22] Ngoài ra có 4 tên mới gồm: Surigae, Cempaka, Koguma và Nyatoh thay thế Mujigae, Melor, Koppu và Meranti. Sau đây là 22 tên gọi của các cơn bão trong năm 2021:
Tên bão JMA | |||
---|---|---|---|
Dujuan (2101) | Surigae (2102) | Choi-wan (2103) | Koguma (2104) |
Champi (2105) | In-fa (2106) | Cempaka (2107) | Nepartak (2108) |
Lupit (2109) | Mirinae (2110) | Nida (2111) | Omais (2112) |
Conson (2113) | Chanthu (2114) | Dianmu (2115) | Mindulle (2116) |
Lionrock (2117) | Kompasu (2118) | Namtheun (2119) | Malou (2120) |
Nyatoh (2121) | Rai (2122) |
Danh sách tên bão Philippines | ||||
---|---|---|---|---|
Auring (2101) | Bising (2102) | Crising | Dante (2103) | Emong |
Fabian (2106) | Gorio (2110) | Huaning (2109) | Isang (2112) | Jolina (2113) |
Kiko (2114) | Lannie (2117) | Maring (2118) | Nando | Odette (2122) |
Năm 2021, trên biển Đông xuất hiện 9 cơn bão và 3 áp thấp nhiệt đới được nước ta công nhận.
Ở Việt Nam một cơn bão (áp thấp nhiệt đới) được đặt số hiệu khi nó đi vào vùng thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương được xác định trên biển Đông phía Tây kinh tuyến 120 độ kinh Đông và phía bắc vĩ tuyến 5 độ vĩ Bắc. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm ví dụ: Bão số 1, bão số 2, áp thấp nhiệt đới 1,...
Dưới đây là các cơn bão/ATNĐ đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương đặt số hiệu trong năm 2021 (kèm theo là vùng đổ bộ):
|title=
(trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
|title=
(trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)