Bản đồ tóm lược mùa bão | |
Lần đầu hình thành | 08 tháng 5 năm 2020 |
---|---|
Lần cuối cùng tan | 29 tháng 12 năm 2020 |
Bão mạnh nhất | Goni – 905 hPa (mbar), 220 km/h (140 mph) (duy trì liên tục trong 10 phút) |
Áp thấp nhiệt đới | 31 |
Tổng số bão | 23 |
Bão cuồng phong | 10 |
Siêu bão cuồng phong | 2 (Không chính thức) |
Số người chết | 453 |
Thiệt hại | $4.06 tỉ (USD 2020) |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2018, 2019, 2020, 2021, 2022 |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2020 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2020, chủ yếu từ tháng 5-12. Các xoáy thuận hình thành trên toàn Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được đặt tên bởi Cục Khí tượng Nhật Bản JMA. Áp thấp nhiệt đới được Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp JTWC theo dõi sẽ có thêm hậu tố "W" phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc di chuyển vào khu vực mà Philippines theo dõi cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PAGASA). Đó là lý do đôi khi vì sao một cơn bão lại có hai tên gọi khác nhau. Đây là mùa bão bắt đầu (xuất hiện xoáy thuận nhiệt đới đầu tiên) muộn thứ 6 trong lịch sử. Goni là cơn bão mạnh nhất mùa bão năm 2020.
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2020 là mùa bão bắt đầu muộn thứ 6 trong lịch sử, sau các mùa bão năm 1973 (bắt đầu ngày 12/05/1973), 1983 (bắt đầu ngày 8/06/1983), 1984 (bắt đầu ngày 7/06/1984), 1998 (bắt đầu ngày 28/05/1998) và 2016 (bắt đầu ngày 25/05/2016). Sau bốn tháng im ắng, cơn bão đầu tiên hình thành ngày 9 tháng 5 (Vongfong) và đổ bộ vào Philippines. Do tác động của pha nóng El Niño vào đầu năm và cuối năm chuyển pha lạnh La Niña, mùa bão 2020 được xem là hoạt động yếu hơn bình thường và yếu hơn mùa bão ở Bắc Đại Tây Dương cùng năm. Quỹ đạo các cơn bão cũng lệch nhiều về Tây với các cơn bão chủ yếu tác động đến bán đảo Triều Tiên, Philippines, Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam. Trong tháng 8 bão Sinlaku đổ bộ vào Thanh Hóa; Nuri (tháng 6), Hagupit, Mekkhala, Higos (tháng 8) gây thiệt hại tại Trung Quốc. Trong tháng 8 và 9, bốn cơn bão Jangmi, Bavi, Maysak, Haishen đổ bộ và gây thiệt hại lớn ở bán đảo Triều Tiên. Nửa cuối tháng 9, trong tháng 10 và nửa đầu tháng 11, sáu cơn bão và một áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta, là Noul (đổ bộ Thừa Thiên-Huế), Linfa (đổ bộ Quảng Ngãi), Nangka (đổ bộ Ninh Bình), Molave (đổ bộ Quảng Ngãi), Etau (đổ bộ Khánh Hòa), Vamco (đổ bộ Quảng Bình) cùng áp thấp nhiệt đới Ofel (đổ bộ Đà Nẵng) và hai cơn bão tác động gián tiếp là Saudel (tan ở bờ biển Quảng Bình), Goni (tan ở bờ biển Bình Định) tổ hợp với không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt đới và các nhiễu động khác gây mưa lớn, ngập lụt diện rộng và lũ lịch sử gây thiệt hại nặng tại các tỉnh Trung Bộ. Ngoài ra, các cơn bão Molave, Goni và Vamco đều gây thiệt hại nghiêm trọng cả về nhân mạng và tài sản tại Philippines.
Do những thiệt hại nghiêm trọng (hơn 1 tỷ USD) mà lũ lụt ở Trung Bộ gây ra, khởi nguồn từ cơn bão số 6 (Linfa), Tổng cục KTTV đã đề xuất loại bỏ (khai tử) tên bão Linfa ra khỏi danh sách 140 tên bão.[1] Tính đến 17h ngày 21/12/2020, thiên tai tại nước ta gây thiệt hại tổng cộng 35.181 tỷ đồng, 346 người chết, mất tích. Riêng đợt bão, lũ ở Trung Bộ từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 16 tháng 11 năm 2020, với các cơn bão số 5, 6, 7, 8, 9, 10, 12, 13, 1 áp thấp nhiệt đới và 1 vùng áp thấp đổ bộ vào các tỉnh từ Ninh Bình đến Khánh Hòa, kèm không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt đới và các nhiễu động khác, làm 249 người chết, mất tích (191 người chết, 58 người mất tích, trong đó: bão 25; lũ 78; sạt lở đất 112; thiên tai khác 34) và 705 người bị thương; 1.531 nhà sập, 239.341 nhà bị hư hại, tốc mái, 473.449 lượt nhà bị ngập; 49.931 ha lúa và hoa màu bị thiệt hại; 40.170 con gia súc, 3.636.270 con gia cầm chết, cuốn trôi; 800 km đê kè, kênh mương bị sạt lở, hư hỏng; 213 km bờ biển, sông bị sạt lở; 1.014 km đường giao thông bị sạt lở hư hỏng; khối lượng đất, đá sạt lở khoảng 3,4 triệu m3. Ước tính thiệt hại về kinh tế khoảng 32.900 tỷ đồng.[2]
Thang bão Saffir-Simpson
Trên khu vực TBTBD, sau bốn tháng yên ắng từ tháng 1 đến tháng 4, mùa bão năm 2020 bắt đầu vào ngày 8 tháng 5 (muộn thứ sáu trong lịch sử) khi bão Vongfong hình thành và đổ bộ vào Philippines đúng lúc đại dịch Covid-19 hoành hành ở đây. Sau đó là Nuri tác động đến Philippines và Trung Quốc. Tháng 7 năm 2020 là lần đầu tiên Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp - Hải quân Hoa Kỳ không ghi nhận bất kỳ xoáy thuận nhiệt đới nào trong tháng 7. Đầu tháng 8, bão Sinlaku hình thành trên biển Đông và đổ bộ Ninh Bình - Thanh Hóa, tác động đến Việt Nam, Lào và Thái Lan. Mùa bão 2020 cũng chứng kiến số xoáy thuận nhiệt đới đổ bộ vào bán đảo Triều Tiên nhiều bất thường với 4 cơn (Jangmi, Bavi, Maysak, Haishen) trong đó có ba cơn có cường độ mạnh, gây thiệt hại nặng nề. Ba cơn bão Hagupit, Mekkhala, Higos đổ bộ vào Trung Quốc. Giữa tháng 9, bão Noul đổ bộ vào Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, tác động đến Việt Nam, Lào, Thái Lan và Campuchia. Cuối tháng 9 đầu tháng 10, bão Dolphin, Kujira, Chan-hom hoạt động ở vùng biển phía Nam Nhật Bản. Trong tháng 10, bão Linfa đổ bộ Quảng Nam - Quảng Ngãi, bão Nangka đổ bộ Nam Định - Ninh Bình - Thanh Hóa, ATNĐ Ofel đổ bộ vào Đà Nẵng - Quảng Nam, bão Saudel (suy yếu thành vùng thấp trước khi đi vào Hà Tĩnh - Quảng Bình) và bão Molave đổ bộ Quảng Nam - Quảng Ngãi đã gây lũ lụt nghiêm trọng tại Việt Nam, Campuchia cùng những tác động tại Lào, Thái Lan và Myanmar và đảo Hải Nam (Trung Quốc). Bão Molave và sau đó là bão Goni đổ bộ vào Philippines gây thiệt hại nghiêm trọng. Bão Goni ngày 31 tháng 10 đã trở thành cơn bão mạnh nhất khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương năm 2020, cũng như mạnh nhất thế giới năm 2020 tính đến thời điểm hiện tại. Gần như cùng thời điểm và thời gian hoạt động, nhưng bão Atsani yếu hơn nhiều (do bị Goni khống chế), tác động đến đảo Đài Loan. Hai cơn bão đều tan trên khu vực biển Đông (Goni khi sát vùng biển ven bờ Bình Định - Phú Yên thì yếu thành vùng thấp và chạm bờ là tan nhanh). Ngay sau đó, bão Etau và Vamco tác động đến Philippines và Việt Nam. Bão Etau sau đó đổ bộ vào Phú Yên - Khánh Hòa. Bão Vamco gây thiệt hại nặng tại Philippines, đi vào biển Đông, mạnh lên và sau đó đổ bộ vào đất liền Hà Tĩnh - Quảng Bình. Bão Etau, Vamco đều gây ra thiệt hại nghiêm trọng tại Việt Nam. Cuối tháng 12, bão Krovanh đổ bộ vào miền Nam Philippines, gây ra một số thiệt hại và sau đó tác động đến Malaysia, miền Nam Thái Lan.
Nhìn chung, mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2020 hoạt động yếu, yếu hơn nhiều so với mùa bão 2020 ở Bắc Đại Tây Dương (năm nay hoạt động mạnh bất thường và đạt kỷ lục của khu vực Bắc Đại Tây Dương). Năn 2020 là lần thứ 3 số bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương ít hơn Bắc Đại Tây Dương (hai lần trước là năm 2005, 2010).
Các ví dụ và quan điểm trong bài viết này có thể không thể hiện tầm nhìn toàn cầu về chủ đề này.tháng 11 năm 2024) ( |
Phân loại | Số lượng bão và ATNĐ theo tháng | Tổng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng 6 | Tháng 7 | Tháng 8 | Tháng 9 | Tháng 10 | Tháng 11 | Tháng 12 | ||
ATNĐ (cấp 6-7) |
0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 |
Bão, bão mạnh (cấp 8-11) |
1 | 0 | 3 | 1 | 2 | 3 | 1 | 11 |
Bão rất mạnh (cấp 12-15) |
0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 1 | 0 | 3 |
Siêu bão (≥ cấp 16) |
0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Tổng | 1 | 0 | 3 | 1 | 5 | 4 | 1 | 15 |
Bão số (hoặc ATNĐ số) |
Tên quốc tế |
Khu vực đổ bộ |
Tâm bão đi qua | Thời gian vào bờ |
Cấp gió lúc đổ bộ |
Cấp bão mạnh nhất trên biển |
Các khu vực ảnh hưởng | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tỉnh | Trạm khí tượng/thủy văn gần bão nhất | |||||||
1 | Nuri | Trung Quốc | - | - | 14/6 | Cấp 8 | Cấp 8 | Bắc Bộ |
2 | Sinlaku | Bắc Trung Bộ | Thanh Hóa | Nghi Sơn | 02/8 | Cấp 7 | Cấp 8 | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
3 | Mekkhala | Trung Quốc | - | - | 11/8 | Cấp 9 | Cấp 9 | - |
4 | Higos | Trung Quốc | - | - | 19/8 | Cấp 10 | Cấp 10 | Bắc Bộ |
5 | Noul | Trung Trung Bộ | Thừa Thiên-Huế | Cầu Truôi (phía Đông trạm) (H. Phú Lộc) |
18/9 | Cấp 8-9 | Cấp 9-10 | Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
6 | Linfa | Trung Trung Bộ | Quảng Ngãi | TP. Quảng Ngãi | 11/10 | Cấp 7 | Cấp 8 | Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên |
7 | Nangka | Bắc Bộ | Ninh Bình | Như Tân (H. Kim Sơn) |
14/10 | Cấp 7-8 | Cấp 10[4] | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
ATNĐ tháng 10 |
- | Trung Trung Bộ | Đà Nẵng | Đà Nẵng | 16/10 | Cấp 6 | Cấp 6 | Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
8 | Saudel | Bắc Trung Bộ Yếu thành vùng thấp |
Quảng Bình | - | 26/10 | < Cấp 6 | Cấp 12-13 | Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
9 | Molave | Trung Trung Bộ | Quảng Ngãi | Bình Sơn (H. Bình Sơn) |
28/10 | Cấp 11-12 | Cấp 14 | Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên |
10 | Goni | Nam Trung Bộ Yếu thành vùng thấp |
Bình Định | - | 06/11 | < Cấp 6 | Cấp 17 | Trung Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên |
11 | Atsani | Tan trên biển | - | - | - | - | Cấp 10 | - |
12 | Etau | Nam Trung Bộ | Khánh Hòa | Ninh Hòa | 10/11 | Cấp 7-8 | Cấp 9 | Trung Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên |
13 | Vamco | Bắc Trung Bộ | Quảng Bình | Tân Mỹ (TX. Ba Đồn) |
15/11 | Cấp 8-9 | Cấp 14 | Bắc Bộ Bắc Trung Bộ Trung Trung Bộ |
14 | Krovanh | Tan trên biển | - | - | - | - | Cấp 8 | - |
Mùa bão trên biển Đông năm 2020 bắt đầu tương đương TBNN với xoáy thuận đầu tiên là cơn bão số 1 (Nuri) vào ngày 12 tháng 6 và đổ bộ vào Trung Quốc. Sau đó là một tháng rưỡi yên ắng trước khi cơn bão số 2 (Sinlaku) đổ bộ vào đất liền tỉnh Thanh Hoá vào đầu tháng 8, chính thức đánh dấu mùa bão bắt đầu trên đất liền nước ta. Trong tháng 8, bão số 3 (Mekkhala) và 4 (Higos) nối tiếp nhau đổ bộ vào miền Nam Trung Quốc. Bão số 2 tuy không mạnh và bão số 4 tuy đổ bộ vào Trung Quốc nhưng hoàn lưu của hai cơn bão đã gây ra mưa lớn và úng lụt cục bộ tại các tỉnh thành Bắc Bộ, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (đặc biệt tại các tỉnh miền núi Bắc Bộ) trong thời điểm đại dịch Covid-19 hoành hành đợt 2 tại Việt Nam có những diễn biến phức tạp và hơn nữa lại là thời điểm diễn ra Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2020 nên hai cơn bão cũng gây ra những tổn thất nhất định.
La Nina xuất hiện khiến quỹ đạo bão lệch dần về phía Tây nhiều hơn và các cơn bão có xu hướng tiến về khu vực từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Giữa tháng 9, cơn bão số 5 (Noul) đổ bộ vào Thừa Thiên-Huế gây thiệt hại nặng nề, 705 tỷ đồng. Sang tháng 10, dải hội tụ nhiệt đới vắt qua Trung Trung Bộ đã tạo nên các nhiễu động và hình thành các xoáy thuận nhiệt đới tiến thẳng về nước ta, tập trung ở Trung và Nam Trung Bộ. Ba ngày sau khi một vùng áp thấp vào Phú Yên - Khánh Hoà, đến ngày 10 tháng 10, bão số 6 (Linfa) hình thành và ngày hôm sau đi vào đất liền tỉnh Quảng Ngãi. Ngay sau đó, trên dải hội tụ tiếp tục hình thành thêm một áp thấp nhiệt đới và mạnh lên thành bão số 7 (Nangka) tuy nhiên đây lại là cơn bão trái mùa đổ bộ vào các tỉnh Nam đồng bằng Bắc Bộ (đi vào địa phận tỉnh Ninh Bình ngày 14 tháng 10). Và gần như ngay lập tức, một áp thấp nhiệt đới khác hình thành trên dải hội tụ và đi vào biển Đông, đổ bộ Đà Nẵng; tiếp đó bão Saudel đi vào biển Đông trở thành bão số 8, nhưng khi tiến gần bờ biển tỉnh Quảng Bình đã suy yếu thành một vùng áp thấp trước khi đi vào và tan dần trên địa phận tỉnh này. Tổ hợp các hình thế trên cùng không khí lạnh đã gây ra đợt mưa rất lớn tại Trung Bộ, kể từ ngày 6/10 cho đến thời điểm hiện tại, trực tiếp gây ra trận lũ lụt lịch sử cho nhiều tỉnh thành, gây thiệt hại nặng nề (riêng bão số 7 gây mưa cho cả Bắc Bộ và làm ngập úng một số địa phương miền Bắc như Nam Định). Cuối tháng 10, cơn bão số 9 (Molave) đi vào biển Đông với cường độ rất mạnh, mạnh cấp 14 giật cấp 17; ngày 28 tháng 10, bão số 9 đổ bộ vào đất liền tỉnh Quảng Ngãi, gây mưa lớn, gió mạnh và gió giật từ cấp 6 đến cấp 14 cùng thiệt hại nặng nề cho khắp các tỉnh Trung và Nam Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên. Sang tháng 11, bão số 10 (Goni) tuy đã suy yếu thành vùng thấp và tan trên khu vực bờ biển tỉnh Bình Định nhưng vẫn gây mưa lớn ở Trung Bộ, gây lũ và sạt lở cục bộ tại Quảng Nam. Hai cơn bão gây ra mưa lớn và tiếp tục kéo dài đợt mưa lũ từ đầu tháng 10 kể trên. Cơn bão số 11 (Atsani) chỉ tồn tại ở Đông Bắc biển Đông trong chưa đầy 24 giờ là tan. Ngay sau đó, cơn bão số 12 (Etau) hình thành và đổ bộ vào Khánh Hòa; tiếp đó cơn bão số 13 (Vamco) trở thành cơn bão mạnh nhất năm 2020 trên biển Đông và đổ bộ vào đất liền tỉnh Quảng Bình sau khi đi dọc bờ biển từ Quảng Nam đến Quảng Bình. Hai cơn bão đều gây gió mạnh, trút mưa lớn xuống miền Trung, gây thiệt hại nghiêm trọng và tiếp tục kéo dài đợt mưa lũ đã hoành hành suốt từ đầu tháng 10 ở Trung Bộ. Cơn bão số 14 (Krovanh) là cơn bão cuối mùa, tan ở Nam biển Đông.
Trên biển Đông mùa bão 2020 hoạt động khá giống năm 1970, 1983, 1990, 1995, 2005. Mặc dù mặt bằng chung mùa bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương hoạt động yếu, song trên biển Đông và đất liền Việt Nam, mùa bão lại hoạt động mạnh và thậm chí là mạnh hơn trung bình nhiều năm, với số bão trên biển Đông là 14/23 cơn (tỷ lệ 60,9%), cao nhất kể từ khi có số liệu quan trắc. Bão và áp thấp nhiệt đới ở nước ta năm 2020:
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 3 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 08 tháng 5 – 16 tháng 5 |
---|---|
Cường độ cực đại | 155 km/h (100 mph) (10-min) 960 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 85 kt - 960hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Việt Nam: 139 km/h - Cấp 13 - Bão rất mạnh
Cấp bão Philipines: 155 km/h giật 255 km/h- Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 165 km/h - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ:100 kt - Bão cuồng phong cấp 3
Cấp bão Đài Loan: 43 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 40 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Bắc Kinh-Trung Quốc: 48 m/s - Bão cuồng phong dữ dội
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 10 tháng 6 – 14 tháng 6 |
---|---|
Cường độ cực đại | 75 km/h (45 mph) (10-min) 996 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Việt Nam: 65 km/h - Bão thường
Cấp bão Bắc Kinh: 20 m/s (cấp 8)- 995 hPa - Bão nhiệt đới (đánh giá lại vào năm 2021, trước đó cho rằng là bão cấp 9).
Cấp bão Hồng Kông: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Vào ngày 10 tháng 6, JMA đã bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới suy yếu đã phát triển về phía đông đảo Samar của Philippines ở Visayas.Trong ngày hôm sau, PAGASA bắt đầu theo dõi hệ thống, đặt tên địa phương là Butchoy.
Cơn bão sau đó đổ bộ lần đầu tiên vào Đảo Polillo ở Quezon lúc 5:30 chiều PHT, và đổ bộ lần thứ hai vào Infanta, Quezon ngay sau đó. Ngay sau đó, JTWC đã ban hành Cảnh báo về sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới cho cơn bão. Sau đó, JTWC chính thức nâng cấp Butchoy lên thành áp thấp nhiệt đới và đặt tên là 02W. Với môi trường thuận lợi với độ cắt gió thấp theo phương thẳng đứng, luồng gió thổi ra xích đạo vừa phải và nhiệt độ bề mặt biển 30–31 °C, Butchoy bắt đầu mạnh lên ở Biển Đông, trở thành một cơn bão nhiệt đới và nhận tên Nuri từ JMA sau đó cùng ngày. Sau đó, PAGASA đưa ra cảnh báo cuối cùng về Nuri khi nó ra khỏi Khu vực trách nhiệm của Philippines. Đến ngày hôm sau, Nuri mạnh thêm và sau đó đạt cường độ cao nhất, với JMA phân tích sức gió cực đại của cơn bão là 75 km một giờ (47 dặm / giờ). Sáu giờ sau, JTWC nâng cấp Nuri lên thành một cơn bão nhiệt đới. Tuy nhiên, sau đó cùng ngày, JTWC đã hạ cấp Nuri thành áp thấp nhiệt đới, với lý do cơn bão đã trôi vào vùng gió cắt dọc cao. JMA đã làm theo, giáng cấp Nuri thành vùng áp thấp. JTWC đã đưa ra cảnh báo cuối cùng về Nuri khi cơn bão sau đó đổ bộ vào Yanjiang, Trung Quốc. JMA đã làm theo sáu giờ sau đó, đưa ra cảnh báo cuối cùng của họ trên hệ thống.
PAGASA đã ban hành Tín hiệu bão nhiệt đới số 1 cho miền tây Mindanao, miền nam Luzon và Visayas vào ngày 11 tháng 6 khi Butchoy tiến gần đến Philippines. Sự kết hợp của hệ thống này và gió tây nam thịnh hành đã mang lại mưa rào và dông trên khắp Philippines. Lượng mưa lớn ở Albay dẫn đến việc kích hoạt các quan chức quản lý rủi ro thiên tai và các tài sản khẩn cấp khác. Những trận mưa từ áp thấp nhiệt đới đã khiến PAGASA tuyên bố bắt đầu mùa mưa ở Philippines vào ngày 12 tháng 6 năm 2020, cũng là trong Ngày Độc lập của đất nước. Ở Hồng Kông, Nuri mang theo mưa lớn. Một người cũng bị chết đuối do nước biển động.
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Thời gian tồn tại | 11 tháng 7 – 15 tháng 7 |
---|---|
Cường độ cực đại | <55 km/h (35 mph) (10-min) 1004 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản:1004 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Philipines: 45 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 45 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Sau khoảng một tháng không hoạt động, vào ngày 11 tháng 7, JMA đã chỉ định một khu vực áp suất thấp gần Luzon là áp thấp nhiệt đới. Ngày hôm sau, JTWC chỉ định vùng lõm là một khoản đầu tư và có cơ hội phát triển thấp, và sau đó được nâng cấp thành cơ hội trung bình. Vào ngày hôm sau, PAGASA nâng cấp hệ thống áp suất thấp thành áp thấp nhiệt đới và đặt tên là Carina.
Trong một môi trường thuận lợi cho sự phát triển hơn nữa, với độ cắt gió thẳng đứng thấp, dòng chảy ra xích đạo được thiết lập và nhiệt độ bề mặt biển 28–29 °C, Carina thường di chuyển theo hướng bắc-tây bắc cho đến giữa trưa (12:00 UTC) vào ngày 14 tháng 7, khi Carina nhanh chóng suy yếu thành một vùng áp suất thấp, do môi trường bất lợi của gió cắt mạnh và dòng chảy mùa đông phân tán. PAGASA sau đó đưa ra lời khuyên cuối cùng của họ cho Carina, và những tàn tích còn lại tan biến vào ngày 15 tháng 7.
Khi hệ thống áp suất thấp được đặt tên là Carina, PAGASA ngay lập tức đưa Tín hiệu số 1, tín hiệu cảnh báo bão thấp nhất của họ, đến Batanes, Quần đảo Babuyan và phần đông bắc của Cagayan. Do lượng mưa lớn do Carina gây ra, cơn bão đã gây ra một số thiệt hại nhỏ trên Ilocos Norte, Abra và Isabela.
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 29 tháng 7 – 3 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 75 km/h (45 mph) (10-min) 985 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 985 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Bắc Kinh: 18 m/s - 992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 18 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Việt Nam: Cấp 8 - Bão thường
Cấp bão Hàn Quốc: 18 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Hồng Kông: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
JMA tuyên bố rằng một áp thấp nhiệt đới đã hình thành vào những giờ đầu của ngày 31 tháng 7. Sau đó vào đầu ngày 1 tháng 8, áp thấp này mạnh lên thành Bão nhiệt đới Sinlaku.Sau đó, cơn bão không mạnh lên nhiều, và trong ngày hôm sau, Sinlaku đổ bộ vào miền Bắc Việt Nam.Ngay sau đó, cả hai cơ quan đã đưa ra lời khuyên cuối cùng về cơn bão.
Sinlaku đã tạo ra mưa lớn trên khắp miền Trung và miền Bắc Việt Nam, dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng. Hai người chết, một người do bờ kè bị sập và người còn lại do lũ quét. Hàng nghìn ngôi nhà bị ngập và mùa màng bị thiệt hại nặng nề. Thiệt hại cả nước khoảng gần 5,4 tỷ đồng (232.900 USD). Lũ quét trên khắp Thái Lan cũng khiến hai người thiệt mạng.
Tàn dư của Sinlaku xuất hiện ở Ấn Độ Dương và mạnh lên thành một vùng áp suất thấp được đánh dấu tốt trong khoảng thời gian từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 8, tạo ra nhiều trận mưa xối xả ở các khu vực của Ấn Độ.
Bão cuồng phong mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 31 tháng 7 – 5 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 130 km/h (80 mph) (10-min) 975 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 70 kt - 975 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 75 kt - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Hàn Quốc: 29 m/s - Bão nhiệt đới trung bình
Cấp bão Đài Loan: 33 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Bắc Kinh: 42 m/s (cấp 14) - 965 hPa - Bão cuồng phong dữ dội (được điều chỉnh sau khi có dữ liệu tốt nhất; trước đó cho rằng đó là bão cấp 13).
Cấp bão Hồng Kông: 130 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Philipines: Bão nhiệt đới dữ dội Vào ngày 31 tháng 7, JMA bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới suy yếu đã phát triển trên Biển Philippines. Sau đó, PAGASA đặt tên cho vùng lõm là Dindo. Đến ngày hôm sau, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp chỉ định Dindo là 03W. Với điều kiện thuận lợi về độ cắt gió thấp theo phương thẳng đứng, luồng gió thổi mạnh từ xích đạo và nhiệt độ bề mặt biển 31 °C, Dindo đã mạnh lên thành một cơn bão nhiệt đới vào giữa trưa cùng giờ, và Cơ quan Khí tượng Nhật Bản đặt tên nó là Hagupit. Hagupit sau đó bắt đầu tăng cường ở Biển Philippines và đến ngày 2 tháng 8, Hagupit đã được nâng cấp thành bão bởi JTWC. JMA sau đó đã nâng cấp Hagupit thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào cuối ngày 2 tháng 8. Khi Hagupit ra khỏi Khu vực trách nhiệm của Philippines (PAR), PAGASA đã phát hành bản tin cuối cùng trên hệ thống. Hagupit sau đó được JMA nâng cấp thành bão vào ngày 3 tháng 8, và sau đó sẽ đạt cường độ cao nhất với áp suất 975 hPa. Vào khoảng 19:30 UTC, Hagupit đổ bộ vào Ôn Châu, Trung Quốc, với sức gió 85 dặm / giờ và áp suất 975 mbar (hPa). Sau khi đổ bộ vào đất liền, Hagupit dần suy yếu trước Trung Quốc, và đến đầu ngày 4 tháng 8, JTWC đã hạ cấp bão thành bão nhiệt đới. Khoảng giữa ngày cùng ngày, JTWC hạ cấp Hagupit thành áp thấp nhiệt đới và sau đó đưa ra khuyến cáo cuối cùng của họ về cơn bão, nhưng JMA vẫn theo dõi Hagupit như một cơn bão nhiệt đới. Hệ thống sau đó sẽ trải qua quá trình chuyển đổi ngoại nhiệt đới, quá trình hoàn thành vào ngày 6 tháng 8 và JMA đã đưa ra lời khuyên cuối cùng của họ về Hagupit ngoại nhiệt đới.
Trước Hagupit, giới chức Trung Quốc đã ra lệnh sơ tán các khu vực dễ bị ngập lụt. Hagupit gây ra lượng mưa xối xả trên các khu vực của Trung Quốc, với đỉnh điểm là 13,11 inch (333 mm) tại quận Jingshan của Ôn Châu. 15 người được báo cáo đã chết trên khắp Hàn Quốc, 6 người trong số họ sau một trận lở đất ở tỉnh Chungcheong Nam, 11 người được báo cáo mất tích và 7 người bị thương.
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 7 tháng 8 – 11 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 994 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt - 994 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 23 m/s - 992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philipines: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 19 m/s - Bão nhiệt đới
Vào ngày 6 tháng 8, Cơ quan Quản lý Dịch vụ Khí quyển, Địa vật lý và Thiên văn Philippines bắt đầu theo dõi một khu vực áp suất thấp phát triển tốt ở phía đông Virac, Catanduanes. Vào ngày hôm sau, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản chỉ định khu vực áp thấp là áp thấp nhiệt đới yếu. Mặc dù trung tâm hoàn lưu ở tầng thấp rộng và kéo dài, nó dần dần được tổ chức, khiến Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp đưa ra Cảnh báo về sự hình thành bão nhiệt đới trên áp thấp.
Vào đầu ngày hôm sau, PAGASA đã nâng cấp nó thành một vùng lõm, đặt tên cho nó là Enteng. Sau đó cùng ngày, JTWC đã chỉ định vùng áp thấp là 05W. Nhưng gần cuối cùng ngày, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản đã nâng cấp áp thấp nhiệt đới lên thành bão nhiệt đới, nhận tên là Jangmi. Như vậy, Jangmi trở thành cơn bão nhiệt đới được đặt tên thứ năm trong mùa bão năm 2020. Vào ngày 9 tháng 8, Jangmi được nâng cấp thành bão nhiệt đới bởi JTWC. Mặc dù đang ở trong điều kiện thuận lợi của độ cắt thẳng đứng thấp và nhiệt độ bề mặt biển 29–30 °C, mức thấp nhất trênhiện ở phía tây của hệ thống cấm Jangmi rộng rãi để tổ chức thêm. Cũng trong khoảng thời gian đó, PAGASA đã bỏ các cố vấn về Jangmi khi nó nhanh chóng rời khỏi Khu vực trách nhiệm của Philippines. Di chuyển về phía bắc với vận tốc 23 hải lý / giờ, JMA báo cáo rằng Jangmi đã đạt đỉnh ở 45 hải lý / giờ (50 dặm / giờ; 85 km / h). Khoảng 05:50 UTC ngày 10 tháng 8, Jangmi đổ bộ vào mũi phía nam của Geojedo, tỉnh Gyeongsang ở Hàn Quốc. JTWC đưa ra lời khuyên cuối cùng về Jangmi vào khoảng 15:00 UTC cùng ngày, và JMA đã đưa ra lời khuyên cuối cùng vào sớm ngày hôm sau, ngày 11 tháng 8.
Jangmi đã giảm lượng mưa như trút nước qua quần đảo Ryukyu của Nhật Bản, với lượng mưa cực đại là 2,2 inch (55,8 mm) được ghi nhận trên đảo Kumejima. Tại Hàn Quốc, lượng mưa ở Jangmi đã giảm tới 2,6 inch (66,04 mm), trong một khu vực đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi lũ lụt trong những tháng trước Jangmi.
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 9 tháng 8 – 11 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 95 km/h (60 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Việt Nam: cấp 9 - Bão thường
Cấp bão Nhật Bản: 50 kt - 992 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 70 kt - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Hồng Kông: 105 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Bắc Kinh: 38 m/s (cấp 13) - 975 hPa - Bão cuồng phong (được điều chỉnh sau khi có dữ liệu tốt nhất công bố vào năm 2021; trước đó cho rằng là bão cấp 12).
Cấp bão Đài Loan: 23 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 21 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 9 tháng 8 – 13 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) |
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt -Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 12 m/s - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Philipines: Áp thấp nhiệt đới
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 16 tháng 8 – 20 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 100 km/h (65 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 55 kt - 992 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Việt Nam: 93 km/h (cấp 10) - Bão nhiệt đới mạnh
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Bắc Kinh: 35 m/s (cấp 12) - 970 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 28 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hồng Kông: 130 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Macao: Bão tương đương cấp 14 - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 24 m/s - Bão nhiệt đới yếu.
Cơ sở cho việc nhận định bão đạt cấp 14 dựa vào số liệu gió duy trì trong 60 phút liên tục mạnh nhất là 116.8 - 127.7 km/h ; gió duy trì mạnh nhất trong 10 phút là 133.6 - 138.6 km/h; gió giật mạnh nhất từ 169.6 - 215.6 km/h ghi nhận tại 4 trạm khí tượng trong quá trình đổ bộ và bão có kích thước rất nhỏ; số liệu quan trắc và hình ảnh radar cho thấy bão mạnh hơn đáng kể so với ước tính qua hình ảnh vệ tinh ; qua đó cho thấy hình ảnh vệ tinh không tương quan hoàn toàn với cường độ.
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 3 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 21 tháng 8 – 27 tháng 8 |
---|---|
Cường độ cực đại | 155 km/h (100 mph) (10-min) 950 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 85 kt - 950 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 100 kt - Bão cuồng phong cấp 3
Cấp bão Hồng Kông: 165 km/h - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Đài Loan: 43 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Bắc Kinh: 45 m/s - 950 hPa - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 45 m/s - Bão nhiệt đới rất mạnh
Cấp bão Philipines: Bão nhiệt đới dữ dội
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 29 tháng 8 – 3 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 175 km/h (110 mph) (10-min) 935 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 95 kt -935 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 120 kt - Bão cuồng phong cấp 4
Cấp bão Bắc Kinh: 52 m/s - 940 hPa - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 195 km/h - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 48 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 49 m/s - Bão nhiệt đới rất mạnh
Cấp bão Philipines: 165 km/h - Bão cuồng phong (trong vùng PAR)
Bão cuồng phong dữ dội (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 31 tháng 8 – 8 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 195 km/h (120 mph) (10-min) 910 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 105 kt - 910 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 135 kt - Siêu bão cuồng phong cấp 4
Cấp bão Bắc Kinh: 60 m/s - 920 hPa - Siêu bão
Cấp bão Đài Loan: 55 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 215 km/h - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 55 m/s - Bão nhiệt đới siêu mạnh
Cấp bão Philipines: 195 km/h - Bão cuồng phong
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 10 tháng 9 – 12 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1006 hPa (mbar) |
Cấp bao Nhật Bản: 30 kt - 1006 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 25 kt - Áp thấp nhiệt đới
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 14 tháng 9 – 19 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt -992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 45 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Việt Nam: 93 km/h - Cấp 10 - Bão mạnh
Cấp bão Bắc Kinh: 25 m/s - 985 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 24 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Đài Loan: 23 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 90 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Philipines: 85 km/h - Bão nhiệt đới (ngoài PAR)
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 19 tháng 9 – 24 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 110 km/h (70 mph) (10-min) 975 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 60 kt -975 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philipines: 110 km/h - Bão nhiệt đới mạnh (ngoài PAR, bản tin cuối)
Cấp bão Đài Loan: 30 m/s -Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hồng Kông: 110 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Bắc Kinh: 30 m/s - 975 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 30 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 27 tháng 9 – 30 tháng 9 |
---|---|
Cường độ cực đại | 110 km/h (70 mph) (10-min) 980 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 60 kt - 980 hPa- Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 65 kt - Bão cấp 1
Cấp bão Đài Loan: 28 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Bắc Kinh: 33 m/s - 975 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 29 m/s - Bão nhiệt đới trung bình
Bão cuồng phong mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 4 tháng 10 – 12 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 130 km/h (80 mph) (10-min) 965 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 70 kt - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 80 kt - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Hồng Kông: 130 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 35 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Bắc Kinh: 38 m/s - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 35 m/s - Bão nhiệt đới mạnh
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 9 tháng 10 – 11 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 994 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt - 994 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 18 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Bắc Kinh: 20 m/s - 995 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 19 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Cấp bão Việt Nam: 65 km/h - Cấp 8 - Bão nhiệt đới
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 11 tháng 10 – 14 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 990 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt - 990 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 50 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 85 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 23 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Bắc Kinh: 25 m/s (cấp 10) - 988 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội (đánh giá lại vào năm 2021)
Cấp bão Việt Nam: Cấp 10 - Bão mạnh[4] (theo báo cáo lên Ủy ban Bão)
Cấp bão Hàn Quốc: 23 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Thời gian tồn tại | 13 tháng 10 – 16 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | <55 km/h (35 mph) (10-min) 1002 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 25 kt - 1002 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 6-7 - ATNĐ
Cấp bão Bắc Kinh: 15 m/s - 1000 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão (Philippines): ATNĐ
Bão cuồng phong mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 19 tháng 10 – 26 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 120 km/h (75 mph) (10-min) 975 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 65 kt - 975 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 80 kt - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Hồng Kông: 140 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 38 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Trung Quốc: 38 m/s - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Việt Nam: 139 km/h (cấp 12-13) - Bão rất mạnh
Cấp bão Hàn Quốc: 35 m/s - Bão mạnh
Cấp bão Philipines: 110 km/h (trong PAR)- Bão nhiệt đới dữ dội
Áp thấp nhiệt đới (JMA) | |
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 19 tháng 10 – 22 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 55 km/h (35 mph) (10-min) 1006 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1006 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - Áp thấp nhiệt đới
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 3 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 23 tháng 10 – 29 tháng 10 |
---|---|
Cường độ cực đại | 165 km/h (105 mph) (10-min) 940 hPa (mbar) |
Cấp bão (Việt Nam): cấp 14 (157 km/h) - bão rất mạnh
Cấp bão Nhật Bản: 90 kt - 940 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 105 kt - Bão cuồng phong cấp 3
Cấp bão Đài Loan: 45 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 40 m/s - Bão nhiệt đới mạnh
Cấp bão Hồng Kông: 165 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Trung Quốc: 48 m/s (cấp 15)- 950 hPa - Bão cuồng phong dữ dội (đánh giá lại vào năm 2021)
Cấp bão Philipines: Bão cuồng phong
Bão cuồng phong dữ dội (JMA) | |
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 28 tháng 10 – 6 tháng 11 |
---|---|
Cường độ cực đại | 220 km/h (140 mph) (10-min) 905 hPa (mbar) |
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 17 (213 km/h) - Siêu bão.
Cấp bão Nhật Bản: 120 kt - 905 hPa - Bão cuồng phong. Chỉ số Drovak: T8.0
Cấp bão Hoa Kỳ: 170 kt - 884 hPa - Siêu bão cuồng phong cấp 5
Cấp bão Đài Loan: 65 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 275 km/h - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Bắc Kinh: 70 m/s - 900 hPa - Siêu bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 56 m/s- Bão siêu mạnh
Cấp bão Philippines: 225 km/h - Siêu bão cuồng phong
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 29 tháng 10 – 8 tháng 11 |
---|---|
Cường độ cực đại | 95 km/h (60 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 50 kt - 992 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 55 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 28 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Trung Quốc: 28 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Philippines: Bão nhiệt đới
Cấp bão Việt Nam: Cấp 10 - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 105 km/h - bão NĐ dữ dội
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Bão nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 7 tháng 11 – 10 tháng 11 |
---|---|
Cường độ cực đại | 85 km/h (50 mph) (10-min) 992 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 45 kt - 992 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 (83 km/h)- Bão nhiệt đới
Cấp bão (Philippines): Bão nhiệt đới
Cấp bão (Trung Quốc): 25 m/s (cấp 10) - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão (Hồng Kông): 85 km/h - bão nhiệt đới
Bão cuồng phong rất mạnh (JMA) | |
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 9 tháng 11 – 17 tháng 11 |
---|---|
Cường độ cực đại | 155 km/h (100 mph) (10-min) 955 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 85kt - 955 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 115 kt - Bão cuồng phong cấp 4
Cấp bão Philippines - 155 km/h giật 255 km/h -Bão cuồng phong
Cấp bão Trung Quốc: 48 m/s (cấp 15) - 945 hPa - Bão cuồng phong dữ dội (đánh giá lại vào năm 2021; trước đó cho rằng 50 m/s).
Cấp bão Việt Nam: Cấp 14 (157 km/h) - Bão cuồng phong
Cấp bão Hồng Kông: 165 km/h - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 43 m/s - Bão nhiệt đới mạnh
Cấp bão Đài Loan: 40 m/s - Bão cuồng phong
Bão nhiệt đới (JMA) | |
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS) | |
Thời gian tồn tại | 18 tháng 12 – 24 tháng 12 |
---|---|
Cường độ cực đại | 65 km/h (40 mph) (10-min) 1002 hPa (mbar) |
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 1002 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Việt Nam: Cấp 8 - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: Bão nhiệt đới
Vào cuối ngày 27 tháng 7, JMA bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới yếu trên vùng biển Tây Thái Bình Dương. Sau đó vào ngày hôm sau, hệ thống này được JTWC phân loại không chính thức là áp thấp cận nhiệt đới, khi nó được cho là có khả năng thấp chuyển đổi thành xoáy thuận nhiệt đới. Trong một môi trường cận biên với dòng chảy theo chu kỳ xoáy thuận, gió cắt từ trung bình đến mạnh và nhiệt độ bề mặt biển 28–30 °C, hệ thống được cho là sẽ tái diễn theo hướng cực và bị hấp thụ bởi một mức thấp ngoại nhiệt đới lớn hơn. Tuy nhiên, áp thấp nhiệt đới đã tan vào ngày 30 tháng 7.
JMA bắt đầu theo dõi trên một áp thấp nhiệt đới khác ở phía nam Nhật Bản vào ngày 27 tháng 9. Hệ thống này di chuyển theo hướng đông bắc chung cho đến khi nó được ghi nhận lần cuối vào 18:00 UTC ngày 29 tháng 9.
Ngày 7/10, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam đã theo dõi một áp thấp nhiệt đới đã đổ bộ vào tỉnh Khánh Hòa. Được tăng cường bởi gió mùa Đông Bắc theo mùa, ở nhiều tỉnh lân cận đã hứng chịu lượng mưa lớn với lượng mưa trung bình 200–300 mm. Tại Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), lượng mưa đạt đỉnh là 360 mm. Đến ngày 11/10, lũ lớn đã giết chết 9 người.
Đây là bảng của tất cả các cơn bão đã hình thành trong mùa bão năm 2020 ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Nó bao gồm tên, ngày tháng, sức gió, áp suất, khu vực đổ bộ, thiệt hại và số người chết được biểu thị bằng chữ in đậm. Cái chết trong ngoặc đơn thường là bổ sung hoặc gián tiếp (một ví dụ về cái chết gián tiếp là một tai nạn giao thông), nhưng vẫn sẽ liên quan đến cơn bão đó. Thiệt hại và tử vong bao gồm tổng số người bị tai nạn, sóng hoặc lũ lụt... và tất cả các con số thiệt hại là vào năm 2020 được tính bằng USD
Tên bão | Thời gian hoạt động |
Cấp độ cao nhất | Sức gió duy trì |
Áp suất | Khu vực tác động | Tổn thất (USD) |
Số người chết | Tham khảo |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vongfong (Ambo) | 08-16 tháng 5 | Bão cuồng phong | 155 km/h (100 mph) | 960 hPa (28.35 inHg) | Palau, Philippines | $50 triệu | 5 | |
Nuri (Butchoy) - Bão số 1 | 10-14 tháng 6 | Bão nhiệt đới | 75 km/h (45 mph) | 996 hPa (29.41 inHg) | Philippines, Hương Cảng, Bắc Bộ | Không xác định | 1 | |
Carina | 11-15 tháng 7 | Áp thấp nhiệt đới | <55 km/h (35 mph) | 1004 hPa (29.65 inHg) | ÁPhilippines | không có | 1 | |
04W | 27 tháng 7 – 29 tháng 7 | Vùng nhiệt đới | <55 km/h (35 mph) | 1010 hPa (29.83 inHg) | Không có | Không có | Không có | |
Sinlaku - Bão số 2 | 31 tháng 7 – 3 tháng 8 | Bão nhiệt đới | 65 km/h (40 mph) | 985 hPa (29.35 inHg) | Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Lào | $12 triệu | 6 | |
Hagupit (Dindo) | 1 tháng 8 – 5 tháng 8 | Bão cuồng phong | 130 km/h (80 mph) | 975 hPa (28.79 inHg) | Trung Quốc, Bán đảo Triều Tiên | $441,2 triệu | 17 | |
Jangmi (Enteng) | 8 tháng 8 – 11 tháng 8 | Bão nhiệt đới | 85 km/h (50 mph) | 996 hPa (29.53 inHg) | Bán đảo Triều Tiên | Không có | Không có | |
Gener | 10 tháng 8 – 13 tháng 8 | Vùng nhiệt đới | 55 km/h (35 mph) | 1012 hPa (29.89 inHg) | Quần đảo Bonin, Quần đảo Ryukyu | Không có | Không có | |
Mekkhala - Bão số 3 (Ferdie) | 10 tháng 8 – 12 tháng 8 | Bão nhiệt đới dữ dội | 95 km/h (60 mph) | 992 hPa (29.29 inHg) | Philippines, Trung Quốc | $159 triệu | Không có | |
Higos - Bão số 4 (Helen) | 17 tháng 8 – 20 tháng 8 | Bão nhiệt đới dữ dội | 100 km/h (65 mph) | 992 hPa (29.29 inHg) | Philippines, Trung Quốc, Bắc Bộ | $142 triệu | 7 | |
Bavi (Igme) | 21 tháng 8 – 27 tháng 8 | Bão cuồng phong | 155 km/h (100 mph) | 950 hPa (28.05 inHg) | Trung Quốc, Bán đảo Triều Tiên | Không có | 1 | |
Maysak (Julian) | 29 tháng 8 – 4 tháng 9 | Bão cuồng phong | 175 km/h (110 mph) | 935 hPa (27.6 inHg) | Quần đảo Ryukyu, Bán đảo Triều Tiên | $100 triệu | 32 | |
Haishen (Kristine) | 31 tháng 8 – 8 tháng 9 | Siêu bão cuồng phong | 195 km/h (120 mph) | 920 hPa (26.87 inHg) | Đảo Mariana, Đông Bắc Trung Quốc, Nhật Bản, Bán đảo Triều Tiên | $100 triệu | 4 | |
12W | 10 tháng 9 – 12 tháng 9 | Áp thấp nhiệt đới | <45 km/h (30 mph) | 1006 hPa (29.71 inHg) | Không có | Không có | Không có | |
Noul - Bão số 5 (Leon) | 15 tháng 9 – 19 tháng 9 | Bão nhiệt đới | 85 km/h (50 mph) | 992 hPa (29.29 inHg) | Philippines, Trung Trung Bộ, Bắc Trung Bộ, Lào, Thái Lan, Myanmar | $175 triệu | 18 | |
Dolphin (Marce) | 19 tháng 8 – 24 tháng 9 | Bão nhiệt đới dữ dội | 110 km/h (70 mph) | 975 hPa (28.79 inHg) | Nhật Bản | Không có | Không có | |
Kujira | 27 tháng 9 – 1 tháng 10 | Bão nhiệt đới dữ dội | 110 km/h (70 mph) | 980 hPa (28.94 inHg) | Không có | Không có | Không có | |
18W | 29 tháng 9 – 1 tháng 10 | Áp thấp nhiệt đới | <55 km/h (35 mph) | 1004 hPa (29.65 inHg) | Không có | Không có | Không có | |
Chan-hom | 5 tháng 10 – 12 tháng 10 | Bão cuồng phong | 130 km/h (80 mph) | 965 hPa (28.5 inHg) | Nhật Bản | Không có | Không có | |
Vùng thấp trên biển Đông | 4 tháng 10 – 11 tháng 10 | Áp thấp nhiệt đới | <55 km/h (35 mph) | 1002 hPa (29.59 inHg) | Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên | Không có | 9 | |
Linfa - Bão số 6 | 9 tháng 10 – 12 tháng 10 | Bão nhiệt đới | 75 km/h (45 mph) | 992 hPa (29.41 inHg) | Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Campuchia, Lào, Thái Lan | $767 triệu | 197 | |
Nangka (Nika) - Bão số 7 | 11 tháng 10 – 14 tháng 10 | Bão nhiệt đới | 85 km/h (50 mph) | 992 hPa (29.23 inHg) | Philippines, Trung Quốc, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Lào | $3 triệu | 4 | |
Ofel | 13 tháng 10 – 16 tháng 10 | Áp thấp nhiệt đới | <55 km/h (35 mph) | 1002 hPa (29.59 inHg) | Philippines, Trung Trung Bộ, Lào | $27,9 triệu | 10 | |
Saudel (Pepito) - Bão số 8 | 19 tháng 10 – 26 tháng 10 | Bão cuồng phong | 140 km/h (85 mph) | 965 hPa (28.5 inHg) | Philippines, Nam Trung Quốc, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ | $2,19 triệu | Không có | |
20W | 19 tháng 10 – 22 tháng 10 | Áp thấp nhiệt đới | <55 km/h (35 mph) | 1006 hPa (29.71 inHg) | Không có | Không có | Không có | |
Molave (Qinta) - Bão số 9 | 24 tháng 10 – 29 tháng 10 | Bão cuồng phong | 155 km/h (95 mph) | 950 hPa (28.05 inHg) | Palau, Philippines, Miền Trung, Tây Nguyên, Lào, Campuchia | $645 triệu | 70 | |
Goni (Rolly) - Bão số 10 | 28 tháng 10 – 6 tháng 11 | Siêu bão cuồng phong | 220 km/h (140 mph) | 905 hPa (26.10 inHg) | Phiippines, Nam Trung Bộ, Trung Trung Bộ | $369 triệu | 27 | |
Atsani (Siony) - Bão số 11 | 29 tháng 10 – 8 tháng 11 | Bão nhiệt đới dữ dội | 95 km/h (60 mph) | 994 hPa (29.35 inHg) | Philippines, Đài Loan | $101 nghìn | Không có | |
Etau (Tonyo) - Bão số 12 | 8 tháng 11 – 11 tháng 11 | Bão nhiệt đới | 85 km/h (50 mph) | 992 hPa (29.239 inHg) | Philippines, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Campuchia | Không có | 2 | |
Vamco (Ulysses) - Bão số 13 | 9 tháng 11 – 15 tháng 11 | Bão cuồng phong | 155 km/h (95 mph) | 950 hPa (28.05 inHg) | Phillipines, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Lào, Thái Lan | $207 triệu | 52 | |
Krovanh (Vicky) - Bão số 14 | 17 tháng 12 – 24 tháng 12 | Bão nhiệt đới | 65 km/h (95 mph) | 1000 hPa (28.05 inHg) | Phillipines, Nam Bộ, Thái Lan | $4,48 triệu | 9 | |
Tổng tỷ số mùa bão | ||||||||
29 xoáy thuận nhiệt đới (Goni mạnh nhất) | 08 tháng 5 năm 2020 – 24 tháng 12 năm 2020 |
220km/h ( 135mph) | 905 hPa (26.72 inHg) | $2,38 tỉ | 453 |
Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực ở Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến cường độ bão nhiệt đới.[10]. JMA đã chọn các tên trong danh sách 140 tên, được phát triển bởi 14 quốc gia thành viên và lãnh thổ của Ủy ban Bão ESCAP / WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó.[11] Tên bị khai tử được WMO công bố có các cái tên Linfa,Vongfong,Molave,Vamco. Tên thay thế các cái tên trên sẽ được công bố vào năm 2022. 23 tên trong danh sách đặt tên được liệt kê ở đây cùng với ký hiệu số quốc tế của chúng, đã được sử dụng trong năm 2020.
|
|
|
|
|
|
|
|
Ở Việt Nam một cơn bão được đặt số hiệu khi nó đi vào vùng thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương được xác định trên biển Đông phía Tây kinh tuyến 120 độ kinh Đông và phía bắc vĩ tuyến 5 độ vĩ Bắc. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm ví dụ: Bão số 1, bão số 2,...
Năm 2020, trên biển Đông đã ghi nhận 14 cơn bão nhiệt đới và 01 áp thấp nhiệt đới được nước ta công nhận. Tổng số bão và ATNĐ đang cao hơn TBNN; trong đó số bão trên biển Đông hiện đang cao hơn TBNN khoảng 4 cơn, số ATNĐ ít hơn khoảng 1-2 cơn. Bão số 1 xuất hiện ngày 12/06/2020. Trong mùa mưa bão năm 2020, có 1 cơn bão đổ bộ vào khu vực Bắc Bộ, 6 cơn bão và 1 ATNĐ đổ bộ vào khu vực Trung Bộ và tập trung ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh Hòa, 2 cơn bão ảnh hưởng gián tiếp đến các tỉnh miền Trung.
Dưới đây là các cơn bão đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương đặt số hiệu trong năm 2020 (kèm theo là vùng đổ bộ):
Ngoài ra, còn áp thấp nhiệt đới sau, được đánh số theo tháng: