Nguyễn Văn Tỵ | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 24 tháng 2, 1917 |
Nơi sinh | Hà Nội |
Mất | |
Ngày mất | 19 tháng 1, 1992 | (74 tuổi)
Nơi mất | Hà Nội |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | họa sĩ |
Lĩnh vực | Hội họa |
Khen thưởng | Huân chương Kháng chiến hạng Nhất Huân chương Kháng chiến hạng Nhì Huân chương Độc lập hạng Ba |
Sự nghiệp hội họa | |
Đào tạo | Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương |
Thành viên của | Hội Mỹ thuật Việt Nam |
Tác phẩm | - Nam Bắc một nhà (sơn mài, 1961) - Cấy ở Tây Bắc (lụa) - Vịnh Hạ Long (sơn mài) |
Giải thưởng | |
Giải thưởng Hồ Chí Minh 2000 Văn học nghệ thuật | |
Ảnh hưởng tới
| |
Nguyễn Văn Tỵ (24 tháng 2 năm 1917 - 19 tháng 1 năm 1992) là họa sĩ Việt Nam và là Tổng thư ký đầu tiên của Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 2, năm 2001).
Nguyễn Văn Tỵ bắt đầu sáng tác từ sớm. Từ lúc học lớp dự bị trường Mỹ thuật Đông Dương, ông đã có những sáng tác sơn dầu và lụa như Cảnh chùa và Tháp, Chân dung em gái được bày ở các cửa hàng tranh. Ông đã nhiều lần tham dự các triển lãm và giành được nhiều giải thưởng. Từ trước năm 1945, ông chuyên về tranh lụa, sơn dầu và khắc gỗ. Sau này ông chuyên về tranh sơn mài, và những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đa số đều dùng chất liệu này.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, mặc dù thiếu thốn nhưng ông vẫn liên tục có nhiều sáng tác mới trong đó có nhiều tác phẩm ký họa về nông dân, về bộ đội, về dân tộc Thái, các tác phẩm với chất liệu in đá, sơn mài, lụa... như Chiến lũy Ngã tư Sở, Xe cứu thương, Cầu mới (tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1948 chào mừng Đại hội Văn nghệ Việt Nam), tác phẩm Bộ đội giã gạo, Vùng biển Cảnh Dương - lụa, Lão chài - sơn mài (Triển lãm Hội họa 1951 tại Chiêm Hóa - Tuyên Quang)... Ông còn viết nhiều bài báo, các bài nghiên cứu về mỹ thuật.[1]
Trong những năm tháng hoạt động mỹ thuật ở miền Bắc (1954 - 1975), ông đã có nhiều tác phẩm mới trưng bày tại nhiều triển lãm lớn: Nông dân kể khổ - sơn mài, Cấy ở Tây Bắc, Khu tự trị Việt Bắc - lụa, tranh cổ động Chị Vân tố cáo vụ Thảm sát Hướng Điền (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1955), Hữu nghị - sơn mài, Xô viết Nghệ Tĩnh (đồng tác giả) - sơn mài (1957), Nhà tranh gốc mít - sơn mài, Du kích Bắc Sơn - sơn mài (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958), Buồm Cửa Hàn, lưới Cửa Hội, Mùa gặt ở Thanh Hóa, Nhà tranh gốc mít (Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1960). Một số tác phẩm của ông đã được chọn tham dự triển lãm 12 nước Xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu (1960). Sau đó ông tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm khác như: Em bé đọc sách, Căm thù - sơn mài, Phong cảnh Chợ Chu (Cánh đồng Chợ Chu) - sơn dầu (1960), Bắc Nam thống nhất, Biển ở Vĩ tuyến 17 (1961)... Ông đã nhiều lần đi thực tế tại khắp nơi trên cả nước và Lào, tham gia Chiến dịch Tây Nguyên (tháng 3/1975) và Chiến dịch Hồ Chí Minh (tháng 4/1975). Với những tư liệu ký họa thời kỳ kháng chiến chống Pháp và qua các chuyến đi thực tế, họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ đã sáng tác nhiều tác phẩm sơn mài, lụa, tranh khắc: Mùa lúa chín - lụa, Du kích mũ nan - khắc gỗ (Huy chương Bạc triển lãm quốc tế đồ họa Leipzig 1965), Hai đội quân gặp nhau - sơn mài (1968), Du kích Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Bên bờ Nhật Lệ (1969), Ra đảo (1971), Đêm Noel Hà Nội 1972 (1973)...[1]
Sau khi thống nhất, cùng với nhiều họa sĩ trong cả nước, ông tập trung sáng tác nhiều tác phẩm dựa trên những ký họa, những ký ức của các chuyến đi thực tế từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ. Về chất liệu sơn mài có các tác phẩm: Vịnh Hạ Long, Chiến dịch Điện Biên Phủ (1980), Ngày vui (1983), Hạ Long, Đường làng, Chợ Bờ, Mèo (1984), Bên dòng Mê Kông (1985), Hai cô Mường (1986), Hội đánh cồng (1987), Làng Mỗ (1988), Phong cảnh miền núi (1989), Phong cảnh Tây Nguyên, Phong cảnh (1991). Về chất liệu sơn dầu: Ngày vui, Cảnh Pắc Bó tham dự triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1976. Về chất liệu lụa có: Bác Hồ ở Pắc Bó (1978), Lưới Hải Vân, Mưa giông, Cấy lúa, Bàn đá chông chênh (1981), Hồi tưởng (1988) [1].
Các tác phẩm hội họa, đồ họa của họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ thể hiện bút pháp khỏe khoắn, hình họa chuẩn xác, bố cục khái quát, phóng khoáng với những tìm tòi thể nghiệm tạo nên bản sắc riêng.[1] Ngoài ra ông còn vẽ bộ tem Hữu Nghị Quan nhân kỷ niệm quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1965).[2]
Ngoài công việc sáng tác, ông còn là nhà lý luận, phê bình mỹ thuật với nhiều bài viết được đăng trên các báo. Ông đã viết khoảng 200 bài được công bố bằng giáo trình hay tham luận khoa học. Ông đã giảng dạy, đào tạo nhiều thế hệ họa sĩ trong thời kì kháng chiến chống Pháp và thời gian giảng dạy tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1956 - 1970). Ông còn soạn nhiều giáo trình phục vụ công tác giảng dạy, đặc biệt cuốn sách Bước đầu học vẽ (Nhà xuất bản Văn hóa, 1963, tái bản 3 lần) là một giáo trình cẩm nang hội họa có giá trị.
Tác phẩm Nam Bắc một nhà (1961) cùng với Hội chùa (Lê Quốc Lộc, Nguyễn Văn Quế, 1939), hai trong các tác phẩm sơn mài tiêu biểu của Việt Nam, là hai bức tranh được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam phục chế lại năm 2006.[3]