Pensacola (lớp tàu tuần dương)

Tàu tuần dương hạng nặng USS Pensacola (CA-24) trên đường đi vào tháng 9 năm 1935
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Lớp tàu tuần dương hạng nặng Pensacola
Xưởng đóng tàu
Bên khai thác Hoa Kỳ Hải quân Hoa Kỳ
Lớp trước lớp St. Louis
Lớp sau lớp Northampton
Thời gian đóng tàu 1926 - 1930
Hoàn thành 2
Nghỉ hưu 2
Giữ lại không
Đặc điểm khái quát(khi chế tạo)[1]
Kiểu tàu Tàu tuần dương hạng nặng
Trọng tải choán nước
  • 9.100 tấn Anh (9.200 t) (tiêu chuẩn);
  • 11.512 tấn Anh (11.697 t)(đầy tải)
Chiều dài
  • 585 ft 6 in (178,46 m) (chung)
  • 558 ft (170 m) (mực nước)
Sườn ngang 65 ft 3 in (19,89 m)
Mớn nước
  • 16 ft 2 in (4,93 m) (trung bình)
  • 22 ft (6,7 m) (tối đa)
Động cơ đẩy
  • 4 × turbine hơi nước Parsons;
  • 12 × nồi hơi White-Forster;
  • 4 × trục;
  • công suất 107.000 shp (80.000 kW)
Tốc độ 32,7 kn (37,6 mph; 60,6 km/h)
Tầm xa
  • 10.000 nmi (12.000 mi; 19.000 km)
  • ở tốc độ 15 kn (17 mph; 28 km/h)
Sức chứa 1.500 tấn Mỹ (1.400 t) dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 85 sĩ quan
  • 445 thủy thủ
Vũ khí
Bọc giáp
  • đai giáp: 60-100 mm (2,5-4 inch);
  • sàn tàu: 25-45 mm (1-1,75 inch);
  • tháp pháo: 19-60 mm (0,75-2,5 inch);
  • tháp pháo ụ: 19 mm (0,75 inch);
  • tháp chỉ huy: 30 mm (1,25 inch)
Máy bay mang theo 4 × thủy phi cơ
Hệ thống phóng máy bay 2 × máy phóng

Pensacola là một lớp tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, và là những chiếc "tàu tuần dương hiệp ước" đầu tiên, được thiết kế trong khuôn khổ được giới hạn trong Hiệp ước Hải quân Washington, cho phép tàu tuần dương có lượng rẽ nước tối đa 10.000 tấn và dàn pháo chính có cỡ nòng không quá 8 inch (203 mm).

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một nỗ lực nhằm giữ cho trọng lượng choán nước nằm trong giới hạn của Hiệp ước, trong khi vẫn có thể trang bị một dàn pháo chính lên đến mười khẩu pháo 8 inch (203 mm), lườn tàu được chế tạo bằng kỹ thuật hàn, và đai giáp khá mỏng chỉ thay đổi trong khoảng 2,5–4 in (64–102 mm).[4][5] Vỏ giáp này không đủ để bảo vệ những phần trọng yếu của con tàu khỏi đạn pháo 8 inch (203 mm) của đối phương và không dày hơn vỏ giáp của tàu tuần dương trang bị pháo 6 inch (152 mm).

Trong thực tế, thoạt tiên Pensacola (CA-24)Salt Lake City (CA-25) được xếp loại là những tàu tuần dương hạng nhẹ[6][7] với ký hiệu lườn CL do chỉ có lớp vỏ giáp tối thiểu, cho đến khi được phân lớp lại vào tháng 7 năm 1931 như là tàu tuần dương hạng nặng CA, vì theo quy ước mới của Hiệp ước Hải quân London, mọi tàu tuần dương có cỡ pháo lớn hơn 6 inch (152 mm) đều là tàu tuần dương hạng nặng. Sàn tàu ngang bằng và dàn pháo chính được phân phối đồng đều cho phía trước và phía sau, chúng trông đẹp mắt và được bố trí cân bằng.

Dàn hỏa lực chính bao gồm mười khẩu pháo 8 inch (203 mm), gồm hai tháp pháo nòng đôi trên sàn tàu chính và hai tháp pháo ba nòng bắn thượng tầng. Mọi khẩu pháo trong mỗi tháp pháo đều được gắn chung trên một bệ duy nhất, nên không thể nâng lên ở góc cao độc lập với nhau. Không may là do sự sắp xếp dàn pháo chính một cách bất thường, và cột ăn-ten phía trước ba chân nặng nề, chúng bị nặng đầu và có xu hướng bị chòng chành. Điều này phối hợp chiều cao khuynh tâm phía trước nhỏ làm cho chúng trở thành những tàu có đặc tính đi biển kém so với các thiết kế sau này. Các cải biến về lườn tàu và cấu trúc thượng tầng được các xưởng tàu thực hiện vào giữa những năm 1930 để nhằm giảm thiểu độ chòng chành này.[8]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Hải quân chỉ chế tạo hai chiếc trong lớp này trước khi chuyển sang thiết kế lớp Northampton. Nhiều thiếu sót của lớp Pensacola được chỉnh sửa bằng cách giảm dàn pháo chính xuống còn ba tháp pháo ba nòng (hai phía trước, một phía sau) và bổ sung một tầng phía trên của cấu trúc thượng tầng phía trước.

Phục vụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Cả hai chiếc PensacolaSalt Lake City đều đã phục vụ trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai tại Mặt trận Thái Bình Dương, tham gia một loạt các chiến dịch quan trọng trong cuộc xung đột; riêng Pensacola bị hư hại nặng trong Trận Tassafaronga và phải sửa chữa mất mười tháng. Cả hai chiếc tàu tuần dương đã sống sót cho đến khi chiến tranh kết thúc.[4][5][6][7]

Sau chiến tranh cả hai được cho xuất biên chế và đều được sử dụng như lườn tàu phục vụ cho việc thử nghiệm bom nguyên tử trong khuôn khổ Chiến dịch Crossroads tại Thái Bình Dương. Sống sót qua cả hai vụ nổ nguyên tử trên không và ngầm dưới nước, cả hai được kéo về Hoa Kỳ và bị đánh chìm tại bờ Tây vào năm 1948.[4][5][6][7]

Những chiếc trong lớp

[sửa | sửa mã nguồn]
Tàu Đặt lườn Hạ thủy Hoạt động Số phận
Pensacola (CA-24)[4][6] 27 tháng 10 năm 1926 25 tháng 4 năm 1929 6 tháng 2 năm 1930 Ngừng hoạt động 26 tháng 8 năm 1946; bị đánh chìm như mục tiêu năm 1948
Salt Lake City (CA-25)[5][7] 9 tháng 6 năm 1927 23 tháng 1 năm 1929 11 tháng 12 năm 1929 Ngừng hoạt động 29 tháng 8 năm 1947; bị đánh chìm như mục tiêu năm 1948

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Ships' Data, U. S. Naval Vessels”. US Naval Department. ngày 1 tháng 7 năm 1935. tr. 16–23. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2015.
  2. ^ Fahey 1941, tr. 9.
  3. ^ a b Rickard, J (ngày 31 tháng 1 năm 2014). “Pensacola Class Cruisers”. Historyofwar.org. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2015.
  4. ^ a b c d Yarnall, Paul (ngày 10 tháng 10 năm 2020). “USS Pensacola (CL/CA 24)”. NavSource.org. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.
  5. ^ a b c d Yarnall, Paul (ngày 27 tháng 9 năm 2020). “USS Salt Lake City (CL/CA 25)”. NavSource.org. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2021.
  6. ^ a b c d Naval Historical Center. Pensacola III (CA-24). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  7. ^ a b c d Naval Historical Center. Salt Lake City I (CL-25). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  8. ^ Silverstone 1965.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Chúng tôi bán
Bài viết liên quan