Tàu tuần dương USS Northampton (CA-26)
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Tên gọi | Lớp tàu tuần dương hạng nặng Northampton |
Xưởng đóng tàu | |
Bên khai thác | Hải quân Hoa Kỳ |
Lớp trước | Pensacola |
Lớp sau | |
Thời gian đóng tàu | 1928-1931 |
Hoàn thành | 6 |
Bị mất | 3 |
Nghỉ hưu | 3 |
Đặc điểm khái quát(khi chế tạo)[1][2] | |
Kiểu tàu | Tàu tuần dương hạng nặng |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 66 ft 1 in (20,14 m) |
Mớn nước |
|
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 32,7 kn (37,6 mph; 60,6 km/h) |
Tầm xa | 10.000 nmi (12.000 mi; 19.000 km) ở tốc độ 15 kn (17 mph; 28 km/h) |
Sức chứa | 1.500 tấn Mỹ (1.400 t) dầu đốt |
Thủy thủ đoàn tối đa |
|
Vũ khí |
|
Bọc giáp | |
Máy bay mang theo | 4 × thủy phi cơ |
Hệ thống phóng máy bay | 2 × máy phóng máy bay |
Lớp tàu tuần dương Northampton là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nặng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1930. Mang nhiều đặc tính cải tiến so với lớp Pensacola dẫn trước, chúng đã được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, khi ba chiếc bị mất trong chiến đấu. Những chiếc còn lại bị tháo dỡ sau khi chiến tranh kết thúc.
Northampton là lớp tàu tuần dương hạng nặng thứ hai được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau khi ký kết Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922, vốn hạn chế trọng lượng choán nước tiêu chuẩn tối đa của tàu tuần dương ở mức 10.000 tấn và cỡ nòng pháo của dàn pháo chính không vượt quá 8 in (200 mm). Những tàu tuần dương hiệp ước đầu tiên là hai chiếc thuộc lớp Pensacola đặt hàng vào năm 1926 đã nhấn mạnh đến hỏa lực và tốc độ bằng cách hy sinh mức độ bảo vệ. Tuy nhiên chúng đã hoàn tất với trọng lượng thực tế khoảng 9.100 t ([chuyển đổi: đơn vị không phù hợp]), dưới hạn mức một cách đáng kể,[5] và được xem là thiếu sót ở khía cạnh bảo vệ.
Lớp Northampton tiếp theo hầu như tương tự ở hầu hết mọi khía cạnh so với lớp Pensacola dẫn trước, khác biệt chính yếu là ở dàn pháo chính. Cho đến lúc đó hầu hết tàu tuần dương hạng nặng của hải quân các nước đều có dàn pháo chính bao tám khẩu pháo 8-inch,[6] được phân bố đều trên bốn tháp pháo hai nòng, gồm hai phía trước và hai phía sau. Trong khi đó Pensacola có đến mười khẩu pháo 8-inch, vì vậy có thể cắt giảm số nòng pháo một cách an toàn để tăng cường vỏ giáp bảo vệ và thêm chỗ cho máy bay. Chỉ có một việc tranh luận xem có nên theo xu hướng chung với bốn tháp pháo hai nòng hay không, nhưng thiết kế sau cùng bao gồm ba tháp pháo ba nòng, gồm hai phía trước và một phía sau; đây là một cách sắp xếp tối ưu và có được đôi chút lợi thế về hỏa lực.[6] Phần còn lại của vũ khí hầu như không đổi, bao gồm bốn pháo 5 in (130 mm) nòng đơn và hai dàn ống phóng ngư lôi ba nòng để phóng ngư lôi cỡ 21 in (530 mm), cho dù các ống phóng ngư lôi bị tháo dỡ sau đó.[7]
Mặc dù vỏ giáp được tăng cường, lớp Northampton cuối cùng lại nhẹ hơn lớp Pensacola, với gần 1.000 tấn bên dưới giới hạn trọng lượng choán nước quy định bởi Hiệp ước. Chỗ trống trên tàu cũng gia tăng đối với lớp Northampton bằng cách sử dụng một tháp chỉ huy phía trước cao, vốn được kéo dài ra phía sau trên ba chiếc sau cùng để hoạt động như những soái hạm. Những chiếc này cũng là những tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ có một hầm chứa cho máy bay, và giường ngủ thay vì võng. Trọng lượng nhẹ hơn dự kiến cũng mang lại khuyết điểm chòng chành đáng kể buộc phải cải tiến sau đó. Lớp tàu tuần dương tiếp nối Portland về bản chất là lớp Northampton được cải tiến.[8]
Lớp Northampton đã được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Ba chiếc Northampton, Chicago và Houston bị mất trong cuộc chiến này. Ba chiếc còn lại được cho ngừng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, và bị tháo dỡ vào những năm 1959- 1961.
Tàu | Đặt lườn | Hạ thủy | Nhập biên chế | Số phận |
Northampton (CA-26)[9][10] | 12 tháng 4 năm 1928 | 5 tháng 9 năm 1929 | 17 tháng 5 năm 1930 | Bị đánh chìm trong trận Tassafaronga ngày 30 tháng 11 năm 1942 |
Chester (CA-27)[11][12] | 6 tháng 3 năm 1928 | 3 tháng 7 năm 1929 | 24 tháng 6 năm 1930 | Xuất biên chế 10 tháng 6 năm 1946; tháo dỡ năm 1959 |
Louisville (CA-28)[13][14] | 4 tháng 7 năm 1929 | 1 tháng 9 năm 1930 | 15 tháng 1 năm 1931 | Xuất biên chế 17 tháng 6 năm 1946; tháo dỡ năm 1959 |
Chicago (CA-29)[15][16] | 4 tháng 7 năm 1928 | 10 tháng 4 năm 1930 | 9 tháng 3 năm 1931 | Bị đánh chìm trong trận đảo Rennell ngày 30 tháng 1 năm 1943 |
Houston (CA-30)[17][18] | 1 tháng 5 năm 1928 | 7 tháng 9 năm 1929 | 17 tháng 6 năm 1930 | Bị đánh chìm trong trận chiến eo biển Sunda ngày 1 tháng 3 năm 1942 |
Augusta (CA-31)[19][20] | 2 tháng 7 năm 1928 | 1 tháng 2 năm 1930 | 30 tháng 1 năm 1931 | Xuất biên chế 16 tháng 7 năm 1946; tháo dỡ năm 1960 |