Phân loại khoa học | |
---|---|
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Cephalaspidomorphi |
Bộ (ordo) | Petromyzontiformes |
Họ (familia) | Petromyzontidae |
Phân họ (subfamilia) | Petromyzontinae Bonaparte, 1831 |
Petromyzontinae là một phân họ trong họ Petromyzontidae. Đây là các loài thuộc nhóm cá mút đá biển, phân bố chủ yếu ở các biển phía Bắc Đại Tây Dương như biển bắc nước Anh, bắc bán đảo Xcan-đi-na-vi và biển Đông Bắc Hoa Kỳ.[1]
Petromyzontiformes |
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cá mút đá biển Bắc nói riêng và cá mút đá nói chung được chú ý vì có nhiều ý nghĩa trong đời sống con người.
Cá mút đá biển Bắc được xem là sinh vật mô hình trong lĩnh vực nghiên cứu về cấu tạo và hoạt động thần kinh, do bộ não của chúng tương đối đơn giản và có nhiều nét phản ánh cấu trúc não của tổ tiên động vật có xương sống (nhóm dây sống sơ khai). Từ những năm 1960, Carl Rovainen đã sử dụng cá mút đá làm mô hình để thực hiện các nguyên tắc cơ bản của điều khiển cơ-thần kinh ở động vật có xương sống, về luồng thần kinh hướng tâm bắt đầu từ tủy sống về phía não. Từ những năm 1970, Sten Grillner và đồng nghiệp của ông tại Viện Karolinska ở Stockholm đã tiếp tục công việc nghiên cứu này trên lĩnh vực rộng hơn.
Cá mút đá biển Bắc từ lâu đã được sử dụng làm thức ăn.[2] Từ thời xưa, cá được ăn thay cho thịt trong Mùa Chay (cấm ăn thịt).
Ở nhiều nước, các loài cá mút đá được gọi là lươn biển, được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, như món kabayaki (lươn nướng) ở Nhật Bản.
Một số loài gây tác hại lớn do kiểu sống như ký sinh của chúng. Chẳng hạn: ở Ngũ đại hồ Bắc Mỹ chúng đã xâm nhập vào đây, sống trong nước ngọt, không chỉ xâm chiếm khu vực mà còn gắn chặt vào cá hồi,[3] hút máu, làm giảm sản lượng cá hồi mỗi năm đến 47 triệu kg.[4]