Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. |
Prostaglandin (PG) là các acid béo không bão hòa ở các mô, có vai trò như một chất trung gian hóa học của quá trình viêm và nhận cảm đau, ngoài ra còn có các tác dụng sinh lý ở các mô riêng biệt.
Năm 1935 Von Euler (Thụy Điển) lần đầu tiên phân lập được một hoạt chất từ tinh dịch và đặt tên là prostaglandin, vì cho rằng chất này xuất phát từ tuyến tiền liệt (prostate: tiền liệt, glande: tuyến). Một nghiên cứu độc lập của M. W.Goldblatt cũng cho rằng PG được tiết ra từ tuyến tiền liệt. Sau này, người ta đã tìm được nhiều mô cũng tiết ra PG với chức năng rất đa dạng. Năm 1971, người ta đã chứng minh được tác dụng ức chế tổng hợp PG của các thuốc dạng aspirin. Năm 1982 các nhà sinh hóa Sune Bergström, Bengt I. Samuelsson và John Robert Vane cùng nhau nhận giải thưởng Nobel sinh hóa học và y học cho công trình nghiên cứu về prostaglandin.
PG được sinh tổng hợp ngay tại màng tế bào từ phospholipid (Hình 1)
PG không phải là một chất đơn, mà ngày nay đã biết đến hơn 20 loại PG. Đó là những nhóm các acid béo không bão hoà, dẫn chất của acid prostanoic, gồm 20 nguyên tử cacbon có cấu trúc tương tự nhau nhưng có hoạt tính sinh học khác nhau. Đầu tiên, người ta phân lập được hai loại PG: một loại tan trong môi trường Ether (nên gọi là PGE) và một loại nữa tan trong môi trường phosphat(nên gọi là PGF). Những nhóm PG được tìm thấy sau này, người ta đánh dấu từ A đến I. Về cơ bản, chúng có tên gọi như sau:
Chữ số ả rập đi theo chữ cái A, B (như PGA1, PGB2) là chỉ số đường nối kép của chuỗi nhánh:
Chữ α (PGF2α) có nghĩa là hai nhóm OH ở vị trí 9 và 11 đều ở dưới mặt phẳng của phân tử, còn chữ β chỉ nhóm OH ở C9 nằm trên mặt phẳng.
Các PG được tổng hợp để dùng ngay tại mô, nồng độ rất thấp chỉ khoảng vài nanogam/gam mô. Chúng có mặt ở khắp nơi trong cơ thể, phạm vi tác dụng sinh lý rất rộng lớn nên còn được gọi là hormon tổ chức.
PGI2, PGX được tổng hợp nhiều trong thành mạch, thời gian bán huỷ chỉ 5 phút, có tác dụng làm giãn mạch và ức chế lắng đọng tiểu cầu.
Thromboxan được tạo thành từ endoperoxyd dưới tác dụng của enzym thromboxane-synthase TXA2, được tổng hợp nhiều trong tiểu cầu, phổi, lách, não. Có tác dụng kết dính tiểu cầu mạnh; co cơ trơn thành mạch và phế quản (hen phế quản). Thời gian bán huỷ ngắn, chỉ khoảng 30 giây, sau đó chuyển thành TXB2, bền vững hơn. TXB2 không có tác dụng như TXA2, nó là chất hóa ứng động (chemotaxic). Thromboxan được giải phóng nhiều trong choáng phản vệ, trong các phản ứng dị ứng da bì:Viêm da tiếp xúc, dị ứng xi măng, chàm tiếp xúc...
Các thuốc NSAIDs ức chế cyclo-oxygenase, các thuốc corticoid ức chế phospholipase làm giảm tổng hợp PG nên có tác dụng chống viêm giảm đau; các chất acid antrinilic, mefenamic, flunamic đối kháng với tác dụng của PG.