Một số nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử cho thấy P. pyrolophus lồng sâu trong phạm vi nhánh tiến hóa chứa chi Megalaima,[2] và vì thế chúng là không khác biệt. Do Psilopogon được Salomon Müller mô tả khoảng năm 1835-1836, vài năm trước khi George Robert Gray dựng lên chi Megalaima (khoảng 1841-1842) nên Psilopogon chiếm ưu thế trong việc dùng làm tên chi nghĩa rộng.[3][4] Vì thế, loài điển hình của chi Psilopogon cả theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp đều là Psilopogon pyrolophus, trong khi chi Megalaima nếu tách riêng có loài điển hình là Megalaima virens.
Psilopogon duvaucelii (đồng nghĩa: Megalaima duvaucelii) - cu rốc đầu đen. Tách ra từ P. australis.[4] Phân bố: Từ đông bắc Ấn Độ qua Đông Dương tới Borneo, Sumatra, Bangka, Nias, Batu
Psilopogon lineatus (đồng nghĩa: Megalaima lineata) - thầy chùa bụng nâu, cu rốc bụng nâu. Phân bố: Từ tây bắc Ấn Độ tới nam Trung Quốc, Đông Dương, bán đảo Mã Lai.
Psilopogon virens (đồng nghĩa: Megalaima virens) - thầy chùa lớn, cu rốc lớn. Phân bố: Từ đông bắc Pakistan, tây bắc Ấn Độ tới đông nam Trung Quốc và Myanmar, bắc Thái Lan, bắc Lào và bắc Việt Nam.
^Moyle R. G. (2004), Phylogenetics of barbets (Aves: Piciformes) based on nuclear and mitochondrial DNA sequence data, Mol. Phylogenet. Evol. 30, 187-200.
^Ericson, Per G. P. (ngày 1 tháng 5 năm 2012). “Evolution of terrestrial birds in three continents: biogeography and parallel radiations”. Journal of Biogeography (bằng tiếng Anh). 39 (5): 813–824. doi:10.1111/j.1365-2699.2011.02650.x. ISSN1365-2699.
^ abcdefghiDen Tex, Robert-Jan; Leonard, Jennifer A (2013). “A molecular phylogeny of Asian barbets: Speciation and extinction in the tropics”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 68 (1): 1–13. doi:10.1016/j.ympev.2013.03.004. PMID23511217.
^ abcCollar N. J. (2006). A taxonomic reappraisal of the Black-browed Barbet Megalaima oorti, Forktail 22: 170-173.
^Rasmussen P. C. & J. C. Anderton (2005). Birds of South Asia: The Ripley Guide. Quyển 2. 688 trang. Smithsonian Institution, Washington D.C., Lynx Edicions. ISBN 9788496553859.
Bối cảnh diễn ra vào năm 1984 thời điểm bùng nổ của truyền thông, của những bản nhạc disco bắt tai và môn thể dục nhịp điệu cùng phòng gym luôn đầy ắp những nam thanh nữ tú
Là một char scale theo tinh thông, Mizuki có chỉ số đột phá là tinh thông, cùng với việc sử dụng pháp khí, có nhiều vũ khí dòng phụ tinh thông, cũng là điểm cộng