Tứ Kỳ
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Tứ Kỳ | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Tỉnh | Hải Dương | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Tứ Kỳ | ||
Trụ sở UBND | Số 2 đường Tây Nguyên, khu La Tỉnh Bắc, thị trấn Tứ Kỳ | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 19 xã | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Vũ Thị Hà | ||
Bí thư Huyện ủy | Nguyễn Ngọc Sẫm | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 20°49′15″B 106°24′3″Đ / 20,82083°B 106,40083°Đ | |||
| |||
Diện tích | 165,5 km²[1] | ||
Dân số (2018) | |||
Tổng cộng | 152.541 người | ||
Mật độ | 923 người/km² | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 298[2] | ||
Biển số xe | 34-N1 | ||
Website | tuky | ||
Tứ Kỳ là một huyện thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam.
Huyện Tứ Kỳ nằm ở phía đông nam tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 14 km, cách thủ đô Hà Nội khoảng 60 km về phía tây bắc, cách thành phố Hải Phòng khoảng 40 km về phía tây bắc, có vị trí địa lý:
Ngã ba sông Luộc đổ vào sông Thái Bình nằm trên ranh giới này. Hầu như xung quanh huyện được bao bọc bởi các con sông nhỏ của hệ thống sông Thái Bình. Chính giữa địa bàn huyện là con sông Tứ Kỳ, con sông này chảy qua huyện Ninh Giang theo hướng từ Tây sang Đông, đổ vào huyện Tứ Kỳ ở địa phận xã Quảng Nghiệp rồi chạy dọc theo chiều dài của huyện theo hướng Tây Bắc - Đông nam, men theo thị trấn Tứ Kỳ ở đoạn giữa Thị trấn, xã Văn Tố với xã Minh Đức, đến đoạn giữa xã Phượng Kỳ và xã Hà Thanh tách làm hai, một nhánh chảy xuống phía nam đổ vào sông Luộc nơi tiếp giáp giữa xã Tiên Động với Vĩnh Bảo ra Cầu Quý Cao sang huyện Tiên Lãng - Hải Phòng; một nhánh qua giữa xã Nguyên Giáp và Tiên Động chảy ra Cầu Xe trước khi đổ vào sông Thái Bình tại địa phận giữa xã An Thanh và Quang Trung, đây là ngã ba ranh giới giữa các huyện Tứ Kỳ, Thanh Hà và Tiên Lãng.
Huyện Tứ Kỳ có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tứ Kỳ (huyện lỵ) và 19 xã: An Thanh, Bình Lãng, Chí Minh, Đại Hợp, Đại Sơn, Dân An, Hà Kỳ, Hà Thanh, Hưng Đạo, Kỳ Sơn, Lạc Phượng, Minh Đức, Nguyên Giáp, Quang Khải, Quang Phục, Quang Trung, Tân Kỳ, Tiên Động, Văn Tố.
Tứ Kỳ 四 歧 (岐), ban đầu sử dụng chữ 歧, từ khoảng cuối thế kỉ XVII thì sử dụng chữ 岐 .
Theo nguyên nghĩa chữ Hán Việt còn được thấy trên các bia đá ở các đình chùa, Tứ Kỳ có nghĩa là "bốn đường rẽ (ngã rẽ)" (ngã tư đường).
Giải thích về nguồn gốc tên "Tứ Kỳ", theo sách "Tứ Kỳ địa dư phong vật chí" của Nguyễn Năng Tấu (huấn đạo Tứ Kỳ), cuối thế kỉ XIX có chép: "Thành của huyện Tứ Kỳ vốn là đồn binh của nhà Lê ở xã Tứ Kỳ[3] (thuộc xã Ngọc Kỳ ngày nay) gọi là đồn Tứ Kỳ. Về sau, nhân đó đặt tên huyện là huyện Tứ Kỳ."[4] Thực tế huyện lỵ của địa phương này lúc đầu đặt tại xã Tứ Kỳ, nên huyện mang tên Tứ Kỳ, giống như huyện lỵ của Đường An (nay là Bình Giang) đặt tại làng Đường An, hay huyện lỵ của Thủy Đường đặt tại xã Thủy Đường (nay là Thủy Nguyên), hay huyện lỵ của Nghi Dương đặt tại xã Nghi Dương (nay là Kiến Thụy), hay huyện Lỵ của An Dương đặt tại xã An Dương.
Thời Lê ở xã Tứ Kỳ (nay thuộc xã Ngọc Kỳ) gần sông Miêu Giang.
Thời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786) chuyển về xã Mặc Xá (nay thuộc xã Quang Phục)
Thời Gia Long (năm 1813), dời đến thôn An Hưng, xã An Lao.
Thời Minh Mệnh (năm 1838), chuyển về xã La Tỉnh.
Thời Đồng Khánh (năm 1888), chuyển về xã An Phòng cho đến năm 1947.
Năm 1954, lại chuyển về La Tỉnh xã Chí Minh.
Trước thời vua Minh Mạng, huyện Tứ Kỳ thuộc phủ Hạ Hồng (gồm 4 huyện: Gia Phúc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại), trấn Hải Dương.
Từ thời vua Minh Mạng, huyện Tứ Kỳ thuộc phủ Ninh Giang. Từ năm 1919, Pháp xóa bỏ cấp phủ (phủ chỉ còn là tên của một đơn vị hành chính cấp huyện).
Đến khoảng giữa thập niên 1930, Tứ Kỳ là một phủ cho tới Cách mạng tháng Tám 1945 với 8 tổng, chia làm 89 xã; lỵ sở ở xã Yên Phòng.[5][6]
Sau cách mạng tháng Tám 1945, Tứ Kỳ là 1 huyện thuộc tỉnh Hải Dương; 9 xã thuộc phủ Tứ Kỳ được cắt sang huyện Gia Lộc, gồm: xã Phan Xá (có 3 thôn Đại Tỉnh, Long Chàng, Thụy Lương), xã Trúc Lâm (có thôn Nghĩa Hy), xã Văn Lâm (cũ là Văn Viên), xã Phong Lâm, xã Lai Cầu, xã Lũy Dương, xã Xuân Dương, xã Đông Liễu, xã Phúc Duyên, 80 xã còn lại được sáp nhập lại thành 23 xã lớn là: Mỹ Ngọc, Ngô Sơn (sau là Kỳ Sơn), Đại Đồng, Hưng Đạo, Bình Lãng, Tái Sơn, Ái Quốc (sau là Quang Phục), Tam Kỳ (sau là Dân Chủ), Quảng Nghiệp, Duy Tân, Ngọc Kỳ, Chí Minh, Minh Đức, Quang Khải, Đỉnh Tân (sau là Văn Tố), Tứ Xuyên, An Thanh, Phượng Kỳ, Cộng Lạc, Tiên Động, Hà Thanh, Quang Trung, Nguyên Giáp.
Năm 1956, 4 xã lớn lại chia thành 8 xã nhỏ: Chí Minh chia thành Đông Kỳ và Tây Kỳ; Duy Tân chia thành Tân Kỳ, Đại Hợp; Ngọc Sơn chia thành Ngọc Sơn, Kỳ Sơn; Hà Thanh chia thành Hà Thanh, Hà Kỳ; Lúc này Tứ Kỳ có 26 xã và ổn định đến năm 2019; huyện lỵ vẫn đặt ở thôn An Phòng xã Quang Phục; từ 1954 được chuyển về thôn La Tỉnh[6], xã Chí Minh (sau là Tây Kỳ). Năm 1968 huyện Tứ Kỳ thuộc tỉnh Hải Hưng (do sáp nhập tỉnh Hải Dương với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng).
Ngày 11 tháng 3 năm 1974, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 22-BT sáp nhập thôn Lộng Khê của xã Phương Kỳ vào xã Tiên Động, sáp nhập thôn Gia Xuyên của xã Tứ Xuyên vào xã Văn Tố, sáp nhập thôn Kim Xuyên của xã Tứ Xuyên vào xã Tây Kỳ.[7]
Năm 1979, huyện Tứ Kỳ hợp nhất với huyện Gia Lộc thành huyện Tứ Lộc, trung tâm hành chính của huyện được chuyển về trung tâm huyện Gia Lộc cũ.
Ngày 27 tháng 1 năm 1996, tách huyện Tứ Lộc trở lại thành 2 huyện Tứ Kỳ và Gia Lộc. Trung tâm hành chính của huyện Tứ Kỳ lại được chuyển về thôn La Tỉnh (thuộc xã Tây Kỳ) như trước khi sáp nhập. Huyện Tứ Kỳ khi đó gồm có 26 xã: An Thanh, Bình Lãng, Cộng Lạc, Đại Đồng, Đại Hợp, Dân Chủ, Đông Kỳ, Hà Kỳ, Hà Thanh, Hưng Đạo, Kỳ Sơn, Minh Đức, Ngọc Kỳ, Ngọc Sơn, Nguyên Giáp, Phượng Kỳ, Quang Khải, Quảng Nghiệp, Quang Phục, Quang Trung, Tái Sơn, Tân Kỳ, Tây Kỳ, Tiên Động, Tứ Xuyên, Văn Tố. Huyện Tứ Kỳ chính thức tái lập từ ngày 1 tháng 3 năm 1996.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hải Dương từ tỉnh Hải Hưng, huyện Tứ Kỳ trở lại thuộc tỉnh Hải Dương.
Ngày 16 tháng 6 năm 1997, thành lập thị trấn Tứ Kỳ, thị trấn huyện lỵ huyện Tứ Kỳ trên cơ sở thôn An Nhân (xã Đông Kỳ) và thôn La Tỉnh (xã Tây Kỳ), có diện tích tự nhiên 476 ha và 6.722 nhân khẩu.
Ngày 08 tháng 11 năm 2000, Huyện Tứ Kỳ được Chủ tịch nước kí tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương giai đoạn 2019–2021 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019)[1]. Theo đó:
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1250/NQ-UBTVQH15[8] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2024). Theo đó:
Huyện Tứ Kỳ có 1 thị trấn và 19 xã như hiện nay.
Là huyện thuần nông ở phía Đông của tỉnh, làng nghề ít phát triển hơn các địa phương khác. Phần lớn các làng nghề của huyện hoạt động cầm chừng, lao động giảm sút, giá trị không cao nên không thu hút được lao động trẻ nối nghề. Tứ Kỳ có 11 làng đã được cấp bằng công nhận làng nghề thì có tới 8 làng nghề thêu ren. Các làng nghề thêu ren lao động sụt giảm và hoạt động cầm chừng, nhiều làng nghề thêu ren có nguy cơ mai một. Nghề mây tre đan có 1 làng cũng trong tình trạng không còn lao động mặn mà dần mai một. Nhóm nghề rèn và dệt cói cũng trong tình trạng tương tự nên khó có thể duy trì. Nhóm dịch vụ, kinh doanh số hộ tham gia bình quân cả huyện rất thấp mặc dù địa bàn rộng nhưng mới chỉ phát triển ở một vài khu dân cư như thị trấn Tứ Kỳ, ngã tư Mắc, Quý Cao. Các làng nghề, làng có nghề và nghề phụ ở các địa phương trong huyện:
Thời phong kiến, đặc biệt dưới thời Hậu Lê, Giáo dục Nho học của Tứ Kỳ rất phát triển, có 48 người Tứ Kỳ đã đỗ tiến sĩ Nho học trong lịch sử, ngoài ra còn rất nhiều người đỗ Hương Cống... Những làng xã có nhiều người đỗ Tiến sĩ Nho học nhất có thể kể đến như: Hương Quất (4 Tiến sĩ), La Xá (4 Tiến sĩ), Bình Lãng (3 Tiến sĩ)...
"Đầu Trắm, đuôi Mè, giữa khe Tam Lạng"
Đầu là làng Trắm: Phong Lâm, Văn Lâm, Trúc Lâm; đuôi là khu vực Mè; Tam Lạng tức là 3 làng Lạng (Bình Lãng): Làng Đông, làng Thượng, làng Khổng Lý.
Văn tự cổ nhất trên địa bàn huyện Tứ Kỳ là các tấm bia đá có niên đại từ thế kỉ XVI:
Cho đến năm 2019, toàn huyện Tứ Kỳ có 102 ngôi chùa; nhiều ngôi đình, đền, miếu...