Tiếng lóng hay từ lóng trong tiếng Việt là các từ vựng hạn chế về mặt thành phần và tầng lớp sử dụng. Trong từng trường hợp khác nhau thì tiếng lóng được sử dụng song song với ngôn ngữ toàn dân nhưng hạn chế về số lượng sử dụng đồng thời, tiếng lóng có khả năng thay đổi về theo thời gian. Đây là những từ mà các tầng lớp người sáng tạo ra nó muốn thông qua nó để bọc lộ cái riêng của tập thể mình, không muốn cho người ngoài biết. Đa số các từ lóng có nguồn gốc và được sử dụng tại một số địa phương nhất định, ở miền Bắc, Trung, Nam.
Từ lóng trong tiếng Việt là tập hợp các từ hiếm gặp trong từ điển tiếng Việt, thuộc loại biệt ngữ xã hội. Một trong các tầng lớp xã hội thường xuyên sử dụng là những người trẻ. Các từ này được dùng rộng rãi ở những nơi như: blog, diễn đàn trực tuyến, chat... và đôi khi là không thể thiếu. Một số không ít từ đã là "ngôn ngữ chính" của các cư dân mạng. Đặc biệt từ lóng còn được giới trẻ hiện nay như Gen Z sử dụng rất nhiều.
Từ thuần Việt là bộ phận từ vựng cơ bản trong vốn từ tiếng Việt, chỉ tên các sự vật và các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc Nam Á và Tày Thái. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy rằng rất nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có những tương ứng, những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc nhóm ngôn ngữ trong vùng. Từ thuần Việt là lớp từ có lâu đời, người bản ngữ có thể hiểu được ý nghĩa của chúng mà không gặp bất kì cản trở nào. Trong khi đó, từ ngữ lóng được xem như một biệt ngữ xã hội. Tức là không phải nhóm xã hội nào cũng dùng tiếng lóng. Như vậy, để tạo ra nét khu biệt, tiếng lóng phải mang nét nghĩa khác so với tiếng toàn dân. Ví dụ:
Qua khảo sát, người ta nhận thấy từ thuần Việt là lớp từ – ngữ lóng được sử dụng nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông. Đặc biệt là báo chí. Đây là lớp từ được xem như đơn giản và dễ hiểu. Khi trở thành tiếng lóng, lẽ tất yếu nó sẽ được gán cho một nghĩa khác với nghĩa gốc của từ. Đôi khi, ta dễ dàng nhận ra sự tương đồng về mặt hình ảnh (gà: một loại gia cầm quen thuộc, thường nuôi theo kiểu hộ gia đình, đôi khi được lựa chọn và chăm sóc một cách đặc biệt để mang đi "đá"), hay đó chỉ là sự tương đồng về mặt âm thanh (bánh bơ, mũ phớt – bơ phớt).
Tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông, ngoài lớp từ thuần Việt còn có lớp từ vay mượn (từ ngoại lai). Trong từ vựng tiếng Việt, chủ yếu có hai lớp từ vay mượn: từ vay mượn gốc Hán và lớp từ vay mượn gốc Ấn – Âu (Pháp, Nga, Anh…). Với lớp từ vay mượn gốc Hán, việc phân loại, xác định một cách rõ ràng và chính xác tuyệt đối là một điều vô cùng khó khăn. Bởi lớp từ đó chủ yếu là những từ gốc Hán đã tồn tại trong từ vựng tiếng Việt từ hơn mười thế kỷ trước. Chúng được Việt hóa rất mạnh, trở nên quá quen thuộc, gần gũi với người Việt: "chè, buồn, mùa, chìm…" (những từ Hán cổ); trường hợp những từ Hán – Việt, có thể dễ dàng hơn trong việc phân định chúng với những từ thuần Việt: "nam, nữ, trọng, khinh, cận, viễn…". Đối với những từ vay mượn gốc Ấn- Âu, do thời gian hòa nhập vào từ vựng tiếng Việt muộn hơn nên chúng chưa được Việt hóa hoàn toàn, dễ nhận thấy nhiều yếu tố ngoại lai vẫn tồn tại trong bản thân những từ ngữ ấy.
Nguyên nhân chính của sự hình thay nguồn gốc vay mượn từ lóng này đó chính là hiện tượng toàn cầu hóa đang là vấn đề thời sự không chỉ riêng của quốc gia nào. Toàn cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống. Ngôn ngữ không nằm ngoài phạm vi ấy. Thậm chí, sự tác động của toàn cầu hóa còn mạnh mẽ, trực tiếp hơn nhiều lĩnh vực khác. Các cộng đồng khác nhau cần có chung một mã ngôn ngữ để giao tiếp. Chính quá trình sử dụng này đã tác động ngược trở lại ngôn ngữ của các cộng đồng. Hiện tượng vay mượn vì thế hình thành. Mặt khác, sự ra đời của hàng loạt khái niệm mới cũng cần được định danh. Cách nhanh chóng và hiệu quả nhất là vay mượn từ của những ngôn ngữ có sẵn.
Số lượng có thể nhiều ít khác nhau, nhưng hiện nay trên thế giới, không một ngôn ngữ nào không có những yếu tố vay mượn. Đó có thể là vay mượn các kết cấu cú pháp, các ngữ cố định, các yếu tố ngữ âm, nhưng chủ yếu là các đơn vị từ vựng. Cùng với các phương thức nội tại như tạo nghĩa mới cho từ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố thuần Việt, việc vay mượn đã góp phần làm gia tăng nhanh chóng vốn từ vựng của tiếng Việt.
Quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán đã để lại trong tiếng Việt một số lượng lớn từ vay mượn gốc Hán. Các từ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về âm đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đó gọi là cách đọc Hán – Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng thế kỉ X – XI và được sử dụng ổn định cho đến nay. Cách đọc này được áp dụng đối với những từ ngữ lóng có từ một hình vị gốc Hán trở lên: "kì thị", "vệ tinh", "bí kíp võ lâm", "phi công", "biến hình", "lâm sự", "cấm vận"... Ví dụ:
Theo những thống kê ban đầu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, lớp từ – ngữ lóng là từ Hán – Việt chiếm tỉ lệ rất ít (4,6% các cứ liệu khảo sát trên báo chí). Nguyên nhân chủ yếu là do sắc thái trang trọng, nghiêm túc của lớp từ này. Lớp từ Hán – Việt xuất hiện nhiều trong các lớp từ vựng mang màu sắc văn hóa gọt giũa hơn là tiếng lóng – vốn được xem như thuộc về phong cách khẩu ngữ. Các từ ngữ lóng gốc Việt và gốc Hán thường được cấu tạo theo cách chuyển nghĩa, tạo nghĩa mới khác với nghĩa gốc của từ. Hiếm thấy trường hợp nào giữ nguyên nghĩa ban đầu.
Lớp từ này chủ yếu có nguồn gốc từ tiếng Pháp và tiếng Anh (xuất hiện khá nhiều ở dạng phiên âm hoặc nguyên ngữ), chiếm tỉ lệ khoảng 12%. Dựa trên những cứ liệu đã khảo sát được, đối tượng sử dụng tiếng lóng chủ yếu là giới trẻ. Họ có xu hướng sử dụng từ vay mượn Anh ở dạng nguyên ngữ. Hiện nay, khi nói đến hiện trạng lạm dụng từ ngữ nước ngoài là nói đến việc lạm dụng lớp từ vay mượn có nguồn gốc Ấn – Âu là chủ yếu (đặc biệt là tiếng Anh). Sở dĩ tiếng Anh trên các văn bản báo chí trở thành lớp từ vay mượn chiếm tỉ lệ lớn là vì hiện nay tiếng Anh được sử dụng phổ biến như một ngôn ngữ quốc tế trên toàn thế giới, việc dạy học và sử dụng tiếng Anh cũng đang rất phổ biến ở Việt Nam. Ví dụ:
Ví dụ trên sử dụng tiếng lóng dưới dạng nguyên ngữ. Thực chất đa phần những từ lóng dưới dạng nguyên ngữ là để tạo ra nét sắc thái riêng biệt cho đối tượng sử dụng nó. Ngoài cách dùng từ nguyên ngữ thì người ta còn phiên âm những từ thông dụng. Từ vựng nói chung, khi đưa vào ngữ cảnh mới có thể nhận biết được các nét nghĩa, vừa tạo màu sắc riêng cho người sử dụng, vừa mang nét nghĩa mới lạ.. Ví dụ:
Ngoài ra, tiếng lóng còn có thêm một hình thức sử dụng là viết tắt:
Thực tế cho thấy, không chỉ người Việt, mà người bản ngữ cũng dùng những cụm từ viết tắt kiểu này. Như vậy, người ta hoàn toàn có thể xếp nó vào hình thức vay mượn nguyên gốc tiếng nước ngoài. Tương đương với FB hay PM còn có BFF (Best friends forever), DIY (Do it yourself), LOL (Laugh out loud), ILU (I love you), KMS (Kill Me Slowly), B4 (Before), OMG (Oh my god)… Tuy nhiên, những cụm này chỉ xuất hiện trên báo 2! và Hoa học trò, còn trên những trang báo như Tuổi trẻ, Tuổi trẻ cười thì hiếm khi được sử dụng.
Cần chú ý rằng các từ ngữ thuộc lớp từ lóng có tính chất lâm thời, chúng là một hiện tượng ký sinh vào vốn từ tiếng Việt. Xuất hiện và mất đi, thay đổi thường xuyên, không ngừng. Bằng chứng là rất nhiều tiếng bồi trước đây rất hay được sử dụng thì nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, ít xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Có thể kể đến các trường hợp sử dụng từ ngữ lóng theo kiểu tiếng bồi như: No four go (vô tư đi), know die now (biết chết liền), ugly tiger (xấu hổ), like is afternoon (thích thì chiều), sugar sugar a hero man (đường đường một đấng anh hùng)...
Hiện tượng sử dụng lớp từ vay mượn của tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông có thể được lý giải qua yếu tố tâm lý lứa tuổi. Đối tượng sử dụng tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông chủ yếu là người trẻ. Khi sử dụng lớp từ vay mượn gốc Hán, những người trẻ thường hướng tới những trao đổi nghiêm túc, những cảm xúc chín chắn, trang trọng. Lớp từ tiếng lóng gốc Hán ít được sử dụng là vì nó không gợi lên cảm giác trẻ trung, phá cách, những người trẻ tuổi nếu sử dụng lớp từ này nhiều sẽ bị những người cùng tuổi đánh giá là "ông cụ non", "sến" theo cách nói hiện nay của giới trẻ. Ngược lại, với những từ vay mượn gốc Ấn – Âu (chủ yếu là tiếng Anh), khi sử dụng giới trẻ sẽ chứng tỏ được sự sành điệu, hiện đại và trình độ tiếng Anh của mình.Từ bệnh sính ngoại ngữ này sẽ dẫn đến hiện tượng nửa Tây nửa ta trong giao tiếp, trở thành một thói quen khó chữa.