Trường Sa (giản thể: 长沙国; phồn thể: 長沙國; Hán-Việt: Trường Sa quốc) là phong quốc chư hầu thời Tây Hán, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Trần trong lịch sử Trung Quốc, ngày nay thuộc địa phận tỉnh Hồ Nam
Năm 202 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang chính thức xưng làm hoàng đế, lập ra vương triều Tây Hán. Nền hành chính những năm đầu triều Tây Hán tuân theo chế độ quận quốc, nghĩa là vẫn giữ nguyên chế độ quận huyện có từ thời nhà Tần đồng thời thực hiện song song chế độ phong quốc.
Phong quốc Trường Sa thời Tây Hán được thành lập vào năm 202 TCN, bị bãi bỏ vào năm 7, tổng cộng tồn tại 209 năm. Lãnh thổ kế thừa từ quận Trường Sa dưới thời Tần; quận trị sở là "huyện Tương" thì cải danh thành "huyện Lâm Tương", đóng vai trò quốc đô nước Trường Sa. Khai quốc công thần của nhà Hán là Ngô Nhuế được phong làm Trường Sa vương đầu tiên.
Năm 8, Vương Mãng soán ngôi ấu đế Nhũ Tử Anh, lập ra nhà Tân, bãi bỏ toàn bộ các nước chư hầu do Tây Hán lập ra. Trường Sa quốc bị đổi thành "quận Điền Man"; quốc đô là "huyện Lâm Tương" bị cải danh thành "huyện Phủ Mục".
Năm 25, nhà Đông Hán thành lập. Năm 26, Hán Quang Vũ Đế phong Lưu Hưng (con Lưu Thuấn - Trường Sa vương cuối cùng dưới thời Tây Hán) làm Trường Sa vương, tái lập nước Trường Sa. Năm 37, Hán Quang Vũ Đế cải phong Trường Sa vương thành Trường Sa hầu, bỏ nước Trường Sa để lập thành huyện Trường Sa.
Dưới thời Hán, Trường Sa nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của triều đình, tương đương cấp quận nhưng được hưởng quyền tự trị cao độ. Lịch sử thường chia lịch sử nước Trường Sa thời Hán làm hai giai đoạn là giai đoạn họ Ngô nắm quyền và giai đoạn họ Lưu nắm quyền.
Ngô thị Trường Sa quốc chỉ giai đoạn họ Ngô nắm quyền nước Trường Sa, được coi là thời kỳ huy hoàng trong lịch sử vương quốc này. Dưới thời họ Ngô, Trường Sa là chư hầu trung thành của nhà Hán và luôn phục tùng triều đình. Trong khi các chư hầu vương do Lưu Bang sở phong như Tạng Đồ, Anh Bố đều phản lại nhà Hán và bị tiêu diệt thì duy có họ Ngô vẫn một mực trung thành; Trường Sa vương Ngô Thần (con trai Trường Sa vương Ngô Nhuế) không ngại đại nghĩa diệt thân, lừa diệt Hoài Nam vương Anh Bố (con rể Ngô Nhuế) khi ông này phản Hán. Từ khi thành lập (202 TCN) cho đến khi chấm dứt vào năm 157 TCN (do Trường Sa Tĩnh vương Ngô Trứ không có con nối dõi), Ngô thị Trường Sa quốc đã trải năm đời vua, tổng cộng kéo dài 46 năm.
Chế độ quan lại của nước Trường Sa tương đồng với Tây Hán, có thừa tướng do triều Hán trực tiếp bổ nhiệm, mang danh là phụ tá cho Trường Sa vương nhưng thực tế là nhằm khống chế quyền lực địa phương. Trường Sa thành (Lâm Tương cổ thành) là nơi ở của Trường Sa vương và là trung tâm chính trị - quân sự của nước Trường Sa.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Tây Hán (202 TCN-156 TCN) | |||||
1 | Trường Sa Văn vương | Ngô Nhuế (吳芮) | 1 | 202 TCN-201 TCN | chư hầu vương khác họ, nguyên được Tây Sở Bá vương Hạng Vũ phong năm 206 TCN, sau theo Hán |
2 | Trường Sa Thành Vương | Ngô Thần (吳臣) | 8 | 201 TCN-193 TCN | con trai của Ngô Nhuế |
3 | Trường Sa Ai vương | Ngô Hồi (吳回) | 7 | 193 TCN-186 TCN | con trai của Ngô Thần |
4 | Trường Sa Cung vương | Ngô Hữu (吳右) | 8 | 186 TCN-178 TCN | con trai của Ngô Hồi |
5 | Trường Sa Tĩnh vương | Ngô Trứ (吳著) | 22 | 178 TCN-157 TCN | con trai của Ngô Hữu |
Năm 157 TCN, Hán Văn Đế băng hà, Hán Cảnh Đế lên ngôi. Năm 155 TCN, Cảnh Đế phong con thứ là Lưu Phát (劉發) làm Trường Sa Định vương; từ đây sử gọi giai đoạn này Lưu thị Trường Sa quốc (nước Trường Sa họ Lưu). Thời kỳ này phạm vi quản hạt của Trường Sa quốc bị thu hẹp rất nhiều. Trường Sa vương chỉ còn nắm quyền trên danh nghĩa.
Năm 142 TCN, Trường Sa Định vương nhân buổi chúc thọ Hán Cảnh Đế mà bày tỏ nỗi lòng với vua cha. Hán Cảnh Đế bèn xuống chiếu giao lại quận Linh Lăng (零陵) và Quế Dương (桂陽) cùng với quận Vũ Lăng (武陵) cho Trường Sa quốc, khiến cương vực Trường Sa đạt đến mức tối đại trong lịch sử tồn tại của vương quốc, tương đương với toàn bộ tỉnh Hồ Nam và một bộ phận các tỉnh Hồ Bắc, Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây và Giang Tây ngày nay.
Lưu thị Trường Sa quốc tính từ khi thành lập đến khi Tây Hán diệt vong đã trải qua tám đời vua, kéo dài tổng cộng 164 năm; tính cả Lưu Hưng thời Đông Hán thì có tổng cộng chín đời vua, trải 175 năm.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Tây Hán 155 TCN-47 TCN) | |||||
1 | Trường Sa Định vương | Lưu Phát (劉發) | 28 | 155 TCN-127 TCN | con trai thứ 7 của Cảnh Đế |
2 | Trường Sa Đái vương | Lưu Dong (劉庸) | 27 | 127 TCN-100 TCN | con trai của Lưu Phát |
3 | Trường Sa Khoảnh vương | Lưu Phụ Cù (劉鮒鮈/劉附朐) | 17 | 100 TCN-83 TCN | con trai của Lưu Dong |
4 | Trường Sa Lạt vương | Lưu Kiến Đức (劉建德) | 34 | 83 TCN-49 TCN | con trai của Lưu Phụ |
5 | Trường Sa Dương vương | Lưu Đán (劉旦) | 2 | 49 TCN-47 TCN | con trai của Lưu Kiến Đức |
6 | Trường Sa Hiếu vương | Lưu Tông (劉宗) | 3 | 45 TCN-42 TCN | con trai của Lưu Kiến Đức |
7 | Trường Sa Mục vương | Lưu Lỗ Nhân (劉魯人) | 49 | 42 TCN-7 | con trai của Lưu Tông |
8 | Trường Sa vương | Lưu Thuấn (劉舜) | 2 | 7-9 | con trai của Lưu Lỗ Nhân |
9 | Trường Sa vương | Lưu Hưng (劉興) | 11 | 26-37 | con trai của Lưu Thuấn |
Năm 289, Tấn Vũ Đế cải quận Trường Sa thành nước Trường Sa; con thứ Tư Mã Nghệ (司馬乂) được phong làm Trường Sa vương, song tại vị không lâu, sau bị giáng làm Thường Sơn vương (常山王). Năm 301 (dưới triều Tấn Huệ Đế), Tư Mã Nghệ được phục phong làm Trường Sa vương.
Trường Sa vương không sống ở Trường Sa quốc; chánh vụ do nội sử xử lý.
Năm 304, Nghệ mất, thụy là Lệ. Năm 308 (dưới triều Tấn Hoài Đế), con trai Tư Mã Nghệ là Tư Mã Thạc nối ngôi Trường Sa vương.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Tây Tấn | |||||
1 | Trường Sa Lệ vương | Tư Mã Nghệ (司馬乂) | 3 | 289-291, 301-303 | con thứ sáu của Tư Mã Viêm |
2 | Trường Sa vương | Tư Mã Thạc (司馬碩) | 4 | 308-311 | con trai Tư Mã Nghệ |
Trường Sa quận công không cai trị Trường Sa quốc; chánh vụ do Trường Sa tướng xử lý.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Đông Tấn | |||||
1 | Trường Sa Hoàn công | Đào Khản (陶侃) | 5 | 329-334 | |
2 | Trường Sa Mẫn Điệu thế tử | Đào Chiêm (陶瞻) | con trai Đào Khản | ||
3 | Trường Sa công | Đào Hoằng (陶弘) | con trai Đào Chiêm | ||
4 | Trường Sa công | Đào Xước Chi (陶綽之) | con trai Đào Hoằng | ||
5 | Trường Sa công | Đào Diên Thọ (陶延壽) | ? | ?-420 | con trai Đào Xước Chi |
Nói chung Trường Sa vương không sống tại Trường Sa quốc; chánh vụ do Trường Sa nội sử xử lý.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Lưu Tống | |||||
1 | Trường Sa Cảnh vương | Lưu Đạo Liên (劉道憐) | 2 | 420-422 | con trai thứ hai của Lưu Kiều |
2 | Trường Sa Thành Vương | Lưu Nghĩa Hân (劉義欣) | ?-439 | con trai cả của Lưu Đạo Liên | |
3 | Trường Sa Điệu vương | Lưu Cẩn (劉瑾) | ?-453 | con trai cả của Lưu Nghĩa Hân | |
4 | Trường Sa vương | Lưu Toản (劉纂) | ?-478 | con trai thứ hai của Lưu Cẩn |
Nói chung Trường Sa vương không sống tại Trường Sa quốc; chánh vụ do Trường Sa nội sử xử lý.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Nam Tề | |||||
1 | Trường Sa Uy vương | Tiêu Hoảng (蕭晃) | 11 | 479-490 | con trai thứ tư của Tiêu Đạo Thành |
Nói chung Trường Sa vương không sống tại Trường Sa quốc; chánh vụ do Trường Sa nội sử xử lý.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Lương | |||||
1 | Trường Sa Tuyên Vũ vương | Tiêu Ý (蕭懿) | (truy phong) | con trai trưởng của Tiêu Thuận | |
2 | Trường Sa Nguyên vương | Tiêu Nghiệp (蕭業) | 20 | 503-523 | con trai Tiêu Ý |
3 | Trường Sa Chương vương | Tiêu Hiếu Nghiễm (蕭孝儼) | 523-? | con trai Tiêu Nghiệp | |
4 | Trường Sa vương | Tiêu Thận (蕭慎) | ?-557 | con trai Tiêu Hiếu Nghiễm |
Nói chung Trường Sa vương không sống tại Trường Sa quốc; chánh vụ do Trường Sa nội sử xử lý.
Thứ | Thụy hiệu | Danh tính | Số năm tại vị | Thời gian tại vị | Ghi chú |
Trường Sa quốc thời Trần | |||||
1 | Trường Sa Tư vương | Trần Quyền (陳權) | (truy phong) | con trai thứ ba của Trần Bá Tiên | |
2 | Trường Sa vương | Trần Thúc Kiên (陳叔堅) | 20 | 569-589 | con trai thứ tư của Trần Húc |