Trần Bạch Đằng | |
---|---|
Chức vụ | |
Công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 1981 – |
Trưởng ban | Hoàng Tùng |
Phó ban Dân vận Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 1978 – |
Trưởng ban | Nguyễn Văn Linh |
Nhiệm kỳ | 1968 – 1971 |
Tiền nhiệm | Võ Văn Kiệt |
Kế nhiệm | Mai Chí Thọ |
Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 1962 – |
Chủ tịch | Nguyễn Hữu Thọ |
Phụ trách Ban Tuyên huấn Trung ương Cục | |
Tổng Biên tập báo Nhân dân Miền Nam của Trung ương Cục | |
Nhiệm kỳ | 1951 – |
Phụ trách tờ Chống Xâm Lăng của Thành ủy Sài Gòn | |
Nhiệm kỳ | 1946 – |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá, Nam Kỳ thuộc Pháp, Liên bang Đông Dương | 15 tháng 7, 1926
Mất | 16 tháng 4, 2007 Bệnh viện Chợ Rẫy, Phường 12, Quận 5, Tp Hồ Chí Minh | (80 tuổi)
Nguyên nhân mất | Ung thư phổi |
Nơi ở | Tp Hồ Chí Minh |
Nghề nghiệp | nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà chính trị, nhà nghiên cứu |
Dân tộc | Kinh |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Họ hàng | Trương Gia Mô (ông nội) |
Alma mater | Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn |
Trần Bạch Đằng (15 tháng 7 năm 1926 — 16 tháng 4 năm 2007) là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo Việt Nam. Ông từng đảm nhận chức vụ Phó trưởng ban Dân vận Trung ương và Bí thư Thành Ủy Sài Gòn. Một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Trần Bạch Đằng lấy bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý là tiểu thuyết Ván bài lật ngửa thuật về một nhân vật tình báo trong Chiến tranh Việt Nam mang tên Đại tá Phạm Ngọc Thảo.
Trần Bạch Đằng tên thật là Trương Gia Triều, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926 tại xã Hòa Thuận, Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá (nay là Kiên Giang).[1] Ông là cháu nội của nhà chí sĩ yêu nước Trương Gia Mô,[2][3] đồng thời tốt nghiệp tiểu học loại ưu và đỗ đầu kỳ thi thuộc khóa đầu tiên của Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký.[4]
Về sự nghiệp chính trị, Bạch Đằng tham gia cách mạng từ khi mới 17 tuổi. Năm 1946, ông đã được giao phụ trách tờ báo Chống xâm lăng của Thành ủy Sài Gòn, năm năm sau thì nắm giữ chức vụ tổng biên tập báo Nhân dân Miền Nam của Trung ương Cục.[5] Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, ông lần lượt đảm nhận qua nhiều cương vị quan trọng như Bí thư Thành ủy Sài Gòn, phụ trách Ban tuyên huấn Trung ương Cục và Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.[6]
Năm 1976, Bạch Đằng là thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam và hai năm sau thì giữ chức vụ Phó Ban Dân vận Trung ương. Năm 1981, ông công tác ở Ban Tuyên huấn và một năm sau thì được giao nhiệm vụ hoạt động công tác tư tưởng văn hóa, viết báo, nghiên cứu khoa học xã hội, hỗ trợ trung ương và Chính phủ Việt Nam một số vấn đề về chiến lược tư tưởng, kinh tế xã hội.[7]
Về sự nghiệp viết lách, do ảnh hưởng từ nền gia giáo của gia đình nên khả năng văn học hình thành trong ông từ rất sớm. Năm 1943, Bạch Đằng đã hoàn thành nhiều bài thơ đầu tay tiêu biểu như Trên bờ Đồng Nai, Dấu cũ, Chiếu rách mưa đêm, Dạy học lậu... dưới nhiều bút hiệu như Hưởng Triều, Nguyễn Hiểu Trường, Nguyễn Trương Thiên Lý, Trần Quang...[8] Ông qua đời vào ngày 16 tháng 4 năm 2007 tại bệnh viện Chợ Rẫy vì nguyên nhân ung thư phổi, hưởng thọ 80 tuổi.[9][10]
Trần Bạch Đằng được truyền thông Việt Nam đánh giá là một nhà báo có tài.[11][12][13][14][15] Sau nhiều năm cầm bút, tên ông thường xuất hiện trên các ấn phẩm truyền thông nổi tiếng chẳng hạn như Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Phụ Nữ. Những lĩnh vực mà Bạch Đằng từng viết khá rộng, từ chính trị đến văn hóa - xã hội, từ chống tham nhũng đến việc xây dựng một xã hội pháp quyền.[16] Xuyên suốt khoảng thời gian từ năm 1998 đến khi qua đời, ông đã viết tổng cộng 977 bài báo, trong đó có 913 bài thuộc thể loại chính luận.[17] Đặc biệt vấn nạn tham nhũng tại Việt Nam đã được ông cảnh báo từ cuối thế kỷ 20.[18]
Trong công tác nghiên cứu về lĩnh vực lịch sử, bộ sách "Lịch sử Nam bộ khách chiến" do ông làm chủ biên vào những năm cuối đời đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá là "tác phẩm xuất sắc".[11] Hội Nhà báo tỉnh Kiên Giang cho biết "Những bài viết của Trần Bạch Đằng về kinh tế rất có chiều sâu và dễ hiểu. Ông như người thổi hồn vào những vấn đề tưởng chừng như khó hiểu này để mọi người đọc với những trình độ khác nhau đều có thể lĩnh hội" và cũng là "tác giả có biệt tài rút tít bài viết rất ấn tượng".[19]
Tên ông được đặt cho tên đường tại các thành phố Đà Nẵng,[20] Cần Thơ, Rạch Giá.[21] Năm 2021, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đặt tên đường Trần Bạch Đằng cho đại lộ vòng cung thuộc Khu đô thị mới Thủ Thiêm.[22]
Thể loại | Tựa đề | Năm | Ct. |
---|---|---|---|
Thơ | Bài ca khởi nghĩa | 1970 | [23] [24] [16] [25] [26] |
Theo sóng Đồng Nai | 1975 | ||
Đất nước lại vào xuân | 1979 | ||
Những cái tên đồng bằng | 1986 | ||
Truyện | Bác Sáu Rồng | 1975 | |
Một ngày của Bí thư Tỉnh uỷ | 1985 | ||
Ông Hai dứt khoát | 1986 | ||
Ván bài lật ngửa (Nhiều tập) | 1987 | ||
Viết về những người đã khuất | 1990 | ||
Ngày về của ngoại | 1985 | ||
Tiểu thuyết | Bài ca khởi nghĩa - Chân dung một quản đốc | 1983 | |
Khác | Trần Hưng Đạo bình Nguyên | 1951 | |
Hành trình | 1972 | ||
Nửa tuần trăng kỳ lạ | 1984 | ||
Tình yêu và lời đáp | 1985 | ||
Ông Hai cũ (Hai tập) | 1986 | ||
Tầm nhìn 700 năm trước | 1987 | ||
Dòng sông không quên | 1989 |