Đô sát viện (都察院, Censorate) là cơ quan tối cao trong các triều đại Trung Quốc và Việt Nam xưa, với trọng trách thay mặt vua giám sát, đàn hặc và kiến nghị mọi hoạt động của quan lại các cấp, lẫn trọng trách giám sát việc thi hành luật pháp và thực hiện nghiêm chỉnh các quy tắc triều đình ban hành từ trung ương đến địa phương. Đô sát viện là cơ quan độc lập tại trung ương, trực thuộc sự điều hành của vua, và không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nào trong hoạt động giám sát của mình. Đô sát viện đã tạo nên một hệ thống giám sát hiệu lực và góp phần làm trong sạch hệ thống quan lại trong các triều đại quân chủ xưa.
Đô sát viện nguyên đã được lập vào đời Tần Trung Quốc và tại Việt Nam, được áp dụng vào thời Nguyễn.
Năm Gia Long 3 (1804), nhà Nguyễn khảo quan chế thời Minh Thanh Trung Quốc, đặt các chức quan phụ trách công tác giám sát tối cao là Đô ngự sử và Phó Đô ngự sử phụ trách Ngự sử đài , tiền thân của Đô sát viện.
Năm Minh Mạng 8 (1827), đặt thêm các Cấp sự trung lục khoa và Giám sát ngự sử tại các đạo. Năm Minh Mạng 13 (1832), Đô sát viện được chính thức thành lập là một viện và trở thành một cơ quan giám sát tối cao với đầy đủ các quy chế kiểm sát các cơ quan hành chính trung ương với Lục khoa và kiểm sát các cơ quan hành chính địa phương, với Giám sát ngự sử các đạo. Bắt đầu từ thời này, Đô sát viện, là một cơ quan hội đồng, cùng với Đại lý tự (cơ quan xét xử tối cao) và bộ Hình nằm trong Tam pháp ty, tức là hệ thống tư pháp của triều đình nhà Nguyễn.
Thời Nguyễn, quan Thông chính sứ, Đại lý tự khanh, Đô sát viện Hữu đô ngự sử, và 6 vị Thượng thư Lục Bộ, hợp thành Cửu khanh của triều đình nhà Nguyễn.
Đứng đầu Đô sát viện là 4 vị đại thần giữ các chức vụ sau:
Bên dưới bốn vị đại thần trên là Lục khoa và 16 vị Giám sát ngự sử 16 đạo.
Tại kinh thành, Lục khoa là các cơ quan Đô sát viện giám sát tất cả các bộ, nha cấp trung ương. Lục khoa, được điều hành bởi 1 quan Cấp sự trung tại mỗi khoa, trật Chánh ngũ phẩm năm 1827, Tòng tứ phẩm năm 1837, gồm:
Tại địa phương, Giám sát đạo là các cơ quan Đô sát viện giám sát tất cả các nha cấp địa phương. Giám sát đạo, được điều hành bởi 1 quan giám sát ngự sử tại mỗi đạo. Về trật phẩm, các Giám sát ngự sử tại các đạo (với chức danh như Kinh kỳ đạo Ngự sử hoặc An Tỉnh đạo Ngự sử) đồng trật Chánh ngũ phẩm. Toàn quốc được chia ra gồm các Giám sát đạo như sau:
Theo Đại Nam thực lục chính biên, nhiệm vụ các quan ngự sử được giao như sau:
Dưới triều Nguyễn, Đô sát viện có các nhiệm vụ sau đây:[1]
Các quan lại của các khoa, đạo hoạt động độc lập rất cao và ý kiến tấu sớ của họ có thể được gửi thẳng lên vua mà không phải trình qua Trưởng quan phê duyệt. Ví dụ, khi vua Minh Mạng băng hà, để tỏ lòng hiếu nghĩa, vua Thiệu Trị tổ chức việc tang lễ quá dài, gây ảnh hưởng đến hoạt động thường nhật của dân chúng, quan Giám sát ngự sử đạo Lạng Bình lúc đó là Doãn Khuê, dâng sớ trực tiếp can gián.
Ngoài việc giám sát thường xuyên của Đô sát viện, triều đình còn thường cử những đoàn thanh tra xuống các địa phương, tại những điểm nóng về kinh tế (vùng mới khai hoang), hoặc nơi vừa trải qua dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh... giải quyết công việc tại chỗ, gọi là chế độ Kinh lược đại sứ. Nổi tiếng nhất là đoàn Kinh lược sứ của Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế, thanh tra toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ vào năm 1836, để lần đầu tiên thiết lập hệ thống sổ sách địa chính của lục tỉnh.