Đế quốc là một nhà nước lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng, thống trị nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn hoặc chi phối được nhiều quốc gia khác.
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều đế quốc sở hữu diện tích lãnh thổ rộng lớn, trải dài qua nhiều châu lục, đôi khi được gọi là các đế quốc toàn cầu, nhưng chưa từng có bất kỳ một đế quốc nào đủ khả năng để thống trị toàn bộ thế giới. Những nỗ lực xuất phát từ tham vọng cá nhân hay chủ nghĩa dân tộc bá quyền, điển hình như Đế quốc Pháp thời Napoleon hay Phe Trục trong Thế Chiến II,... đều thất bại.
Đế quốc, xét về ngữ nghĩa, là từ Hán Việt có nghĩa là đất nước được cai trị bởi một vị hoàng đế. Đế quốc có cấp bậc cao hơn vương quốc, là đất nước được cai trị bởi một quân vương. Các cấp bậc này nằm trong hệ thống phân chia thứ bậc của chế độ chính trị phong kiến. Đế quốc là rộng lớn và đông dân hơn vương quốc,[1] uy quyền hoàng đế là lớn hơn so với tước vương. Điều này tương tự cách dùng "Empire" (đế quốc) trong tiếng Anh dùng chỉ nước cai trị bởi một "Emperor" (hoàng đế), cấp bậc cao hơn "Kingdom" (vương quốc) là nước cai trị bởi một "King" (quân vương).
Ở Trung Hoa, người nắm lấy thiên hạ sau một cuộc chinh phạt sẽ trở thành hoàng đế, tước vương và đất đai thường do hoàng đế ban cấp cho họ hàng thân thuộc. Ở Châu Âu, quyền lực cao nhất ở từng nước là Vương Thất (một số nước tước vị thậm chí thấp hơn, ví dụ: Đại công quốc Ba Lan,...). Danh hiệu quý tộc cao nhất ở châu Âu là hoàng đế do bầu chọn bởi các nước với danh hiệu Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh. Ở Pháp, đến khi Napoleon Đệ nhất nắm quyền, ông ta trở thành hoàng đế đầu tiên của nước Pháp bởi Napoleon đã chinh phạt và chiếm được gần như toàn bộ phần tây châu Âu. Ở Anh, người được xem là hoàng đế đầu tiên chính là Victoria với danh hiệu Nữ hoàng Ấn Độ, vì lý do chính trị, Victoria giới hạn danh hiệu "nữ hoàng" chỉ sử dụng trên phạm vi Ấn Độ thuộc Anh, trong khi chỉ duy trì danh hiệu "Vương" ở Anh và các phần còn lại của đế quốc Anh.[a]
Hệ thống phân chia thứ bậc phong kiến cũng có tính chất cưỡng ép chứ không phải được đồng thuận. Ví dụ, hoàng đế Trung Quốc qua nhiều thời kỳ chỉ xem Việt Nam như một vương quốc chư hầu, và phong tước An Nam quốc vương cho vua Việt Nam, nhưng trên thực tế không sở hữu hay có bất kỳ thẩm quyền nào đối với Việt Nam.
Về sau, từ Đế quốc (hay "Empire" trong tiếng Anh) vẫn được sử dụng cho các nước lớn không theo chế độ phong kiến, dùng để chỉ một nước với khả năng kiểm soát hệ thống chính trị rộng lớn bao gồm nhiều nước. Từ Đế quốc được sử dụng với hàm nghĩa một nước mở rộng kiểm soát lãnh thổ và quyền lực chính trị, chứ không nhất thiết phải là một nước mang đặc tính chính trị phong kiến. Ví dụ, Đế quốc Mỹ.
Từ "đế quốc" và "đế chế" trong tiếng Việt là hai từ riêng biệt với ý nghĩa khác nhau thường được sử dụng nhầm lẫn. Từ "đế quốc" chỉ một hệ thống liên kết nhiều quốc gia, trong khi từ ''đế chế'' chỉ chế độ chính trị quân chủ.
Trường hợp nhầm lẫn điển hình là Đế quốc Việt Nam, từ "đế quốc" ở đây chỉ quốc gia theo chế độ chính trị hoàng quyền nhà Nguyễn vừa giành được độc lập dưới sự hỗ trợ danh nghĩa của Nhật, trong ý nghĩa này "đế quốc" chỉ chế độ chính trị. Trường hợp Đế chế thứ ba của Đức, từ "đế chế" được sử dụng trong khi nước Đức dưới quyền Hitler lúc đó không phải là chế độ quân chủ mà là chế độ độc tài quân sự, trong ý nghĩa này "đế chế" lại được dùng để chỉ quốc gia.
Theo định nghĩa của các nhà sử học Marxist thì đế quốc là quốc gia đi xâm lược các nước khác, thống trị các nước chiếm được, tiến hành vơ vét của cải, khai thác tài nguyên và bóc lột sức lao động dân bản xứ. Đế quốc là một nước thống trị nhiều nước, và các nước bị thống trị được gọi là thuộc địa. Trường phái Marxist chỉ trích rất nặng nề đối với "đế quốc" nhất là giai đoạn đối đầu ý thức hệ trong thế kỷ XX.
Theo cách lý giải của những nhà sử học tư bản phương Tây thì đế quốc là tập hợp nhiều quốc gia, trong đó có một quốc gia nắm vai trò lãnh đạo cả hệ thống. Đế quốc theo quan niệm này không phải là một nước, mà là một hệ thống. Những nhà sử học thuộc trường phái này mặc dù thừa nhận sự tiêu cực của đế quốc nhưng vẫn mô tả mặt tích cực của nó, như sự lây lan của văn minh phương Tây với nhiều tiến bộ.
Quan niệm thống nhất giữa hai trường phái sử học đối với "đế quốc" thì quan hệ giữa nước thống trị và bị trị trong hệ thống đế quốc đó là bất bình đẳng. Vì nếu sự bất bình đẳng không tồn tại thì hệ thống sẽ được gọi là "liên bang".
Trong các cách định nghĩa khác, đế quốc là một quốc gia đa sắc tộc hay nhà nước đa quốc gia với sự thống trị về mặt chính trị, quân sự của một dân tộc đối với các dân tộc có sự khác biệt về văn hóa và dân tộc.[3]
Tom Nairn và Paul James định nghĩa đế chế là thực thể chính trị "mở rộng quan hệ quyền lực trên các không gian lãnh thổ mà họ không có chủ quyền pháp lý trước đó và mở rộng một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa, họ có được một số đo lường quyền bá chủ rộng rãi trên các không gian đó cho mục đích trích xuất hoặc tích lũy giá trị".[4] Rein Taagepera đã định nghĩa một đế chế là "bất kỳ thực thể chính trị có chủ quyền tương đối lớn nào đối với các thành phần không có chủ quyền".[5]
Tuy vậy, trong lịch sử tồn tại những trường hợp rất khác biệt nhau khiến cho việc hiểu đế quốc theo một định nghĩa chung không phải là điều đơn giản. Điển hình như trường hợp Đế quốc La Mã Thần thánh (từ thế kỷ 8 đến năm 1806) không có thẩm quyền ở nhiều nước châu Âu nhưng vẫn được duy trì như một hệ thống phân chia thứ bậc chính trị hoàng quyền, một hệ thống Công giáo được nhiều nước thần phục và đóng thuế tượng trưng. Trường hợp khác là Trung Quốc với hệ thống thần phục và triều cống chứ không có chủ quyền thực tế chính trị và lãnh thổ đối với các nước láng giềng. Hay như trường hợp phức tạp của Hoa Kỳ vẫn gây tranh cãi hiện nay.
Một cấu trúc chính trị đế quốc có thể được thiết lập và duy trì theo hai cách:[6]
Về phạm vi và hình lãnh thổ, đế quốc có hai dạng chủ yếu:
Các đế quốc thường được hình thành từ nhiều thành phần dân tộc, đa quốc gia, đa dạng văn hóa và tôn giáo khác nhau.[10]
Mục đích cơ bản của đế quốc và các cuộc chiến tranh chinh phục liên quan mở rộng phạm vi lãnh thổ, chiếm hữu của cải và tài nguyên, chiếm hữu nô lệ, duy trì hoạt động thương mại, trong đó bao gồm độc quyền thương mại, truyền giáo hoặc duy trì hệ thống trưng thu thuế và triều cống lên nhiều nước. Không chỉ chiếm dụng mà còn duy trì lâu dài việc chiếm dụng đó để phục vụ và duy trì sự thịnh vượng của đế quốc.
Mục đích riêng mỗi đế quốc trong quá trình bành trướng có thể khác nhau đôi chút từ mục đích cơ bản, do các điều kiện kinh tế-xã hội và lịch sử khác nhau.
Các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha mở rộng đế quốc xuất phát từ nhu cầu truyền đạo Công giáo. Trong bối cảnh nổi lên của Đế quốc Ottoman đã chiếm con đường sang phương Đông, mở rộng Hồi giáo và các cuộc tấn công lấn sâu vào châu Âu đang diễn ra trên vùng Balkan. Sứ mệnh truyền đạo Công giáo để cạnh tranh trở thành nhu cầu bức thiết. Bên cạnh đó, người Bồ Đào Nha, mà sau đó là Hà Lan đặc biệt chú trọng thương mại vì nhu cầu thịnh vượng, củng cố mạnh mẽ quốc gia trước các cường quốc ở châu Âu. Bồ Đào Nha do đất nước nhỏ bé và dân số ít hơn các nước châu Âu không cho phép họ khả năng lấn sâu vào châu Âu, buộc họ bành trướng hải ngoại, chiếm lấy những vùng đất lạc hậu mà khả năng quân sự và công nghệ Bồ Đào Nha lúc bấy giờ có thể cho phép họ dễ dàng thực hiện hơn so với ở châu Âu. Còn trường hợp Hà Lan, họ được thôi thúc bởi nhu cầu củng cố thịnh vượng, là nhu cầu đảm bảo cho cuộc chiến tranh dài nhiều thập niên chống Tây Ban Nha để giành độc lập ở miền Bắc và sau đó là các tỉnh miền Nam.
Nước Pháp từ thế kỷ 17 đã đẩy mạnh bành trướng thuộc địa hải ngoại bởi nhu cầu xây dựng quyền lực và sự thịnh vượng khắp các lục địa, qua đó, thúc đẩy vinh quang và uy tín chính trị của triều đại Bourbon ở châu Âu.
Vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, theo cách lý giải của các nhà sử học Marxist, mở rộng của đế quốc liên quan đến chủ nghĩa thực dân, với động cơ kinh tế rõ ràng hơn, trong giai đoạn phát triển tột cùng của chủ nghĩa tư bản, các lý do của bành trướng đế quốc chủ yếu từ:
Thuộc địa là nơi cung cấp tài nguyên, là nơi tiêu thụ hàng hóa cùng nguồn nhân công rẻ mạt, và là nơi để đế quốc trút các gánh nặng của "khủng hoảng thừa". Từ đó thôi thúc các nước đế quốc chạy đua xâm lược và tranh giành thuộc địa trên khắp thế giới.
Ở một số nước đế quốc, động cơ xây dựng đế quốc đạt mức cực đoan, như trường hợp Đế chế Đức III, dưới chính quyền Đức Quốc xã. Mục tiêu cơ bản là Không gian sinh tồn, xâm chiếm các quốc gia Tây châu Âu, sau đó là Nga, chiếm đất đai dân tộc khác, thuyên chuyển, cưỡng bức họ di cư đến những vùng đất xa xôi, nô lệ hóa hoặc diệt chủng.
Vào thế kỷ 24 trước Công nguyên (TCN), Đế quốc Akkad do vua Sargon Đại đế trị vì là một đế chế lớn đầu tiên trong lịch sử. Trong thế kỷ 15 TCN, Ai Cập bước vào thời kỳ Tân Vương quốc Ai Cập, dưới sự thống trị của pharaon Thutmose III. Đế chế đầu tiên có uy lực sánh ngang với La Mã trong giai đoạn sau là Đế quốc Assyria (2000 - 612 TCN). Ngoài ra, gần Đế quốc Assyria, người Media cũng có một "đế quốc" và chính họ đã chinh phạt luôn cả kinh thành Assyria với sự hỗ trợ của Đế quốc Tân Babylon. Cận kề với Đế quốc Media có đế quốc Lydia,[12] với ông vua giàu có nổi tiếng Kroisos.[13] Nhưng rồi Media bị vua chư hầu xứ Ba Tư là Cyrus Đại Đế tiêu diệt[14], và lập nên Đế quốc Ba Tư của nhà Achaemenes (550-330 TCN). Dưới sự chỉ huy của vua Cyrus Đại Đế, quân Ba Tư chinh phạt được Lydia và Babylon.[15] Ba Tư là một đế quốc vinh quang, rộng lớn và đa văn hóa, thâu tóm cả Lưỡng Hà, Ai Cập, một phần của Hy Lạp, xứ Thrace, phần còn lại là Trung Đông, nhiều khu vực tại Trung Á và Pakistan, cho đến khi đế quốc này bị Alexandros Đại Đế đánh đổ và thay thế bằng Đế quốc Macedonia, nhưng rồi đế quốc này cũng yểu mệnh như ông.
Đế chế được dùng chỉ một doanh nghiệp kinh doanh quy mô lớn (ví dụ một công ty xuyên quốc gia), một tổ chức chính trị được kiểm soát bởi một cá nhân duy nhất (một ông chủ chính trị) hoặc một nhóm (các ông chủ chính trị).[16]
Từ điển từ Wiktionary | |
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Dữ liệu từ Wikidata |