Louis XIV của Pháp | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vua Mặt trời | |||||
Louis XIV, họa phẩm của Hyacinthe Rigaud năm 1701 | |||||
Quốc vương nước Pháp và Navarra | |||||
Tại vị | 14 tháng 5 năm 1643 – 1 tháng 9 năm 1715 72 năm, 110 ngày | ||||
Đăng quang | 7 tháng 6 năm 1654 | ||||
Nhiếp chính | Ana của Tây Ban Nha (1643-1651) | ||||
Tiền nhiệm | Louis XIII | ||||
Kế nhiệm | Louis XV | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 5 tháng 9 năm 1638 Château de Saint-Germain-en-Laye, Saint-Germain-en-Laye, Vương quốc Pháp | ||||
Mất | 1 tháng 9 năm 1715 (76 tuổi) Lâu đài Versailles, Versailles, Vương quốc Pháp | ||||
An táng | Nhà thờ Saint-Denis, Saint-Denis, Pháp | ||||
Phối ngẫu | María Teresa của Tây Ban Nha Françoise d'Aubigné | ||||
Hậu duệ | Louis, Thái tử nước Pháp Anne-Elisabeth của Pháp Marie-Anne của Pháp Marie-Thérèse của Pháp Philippe-Charles của Pháp Louis-François của Pháp | ||||
| |||||
Vương tộc | Nhà Bourbon | ||||
Thân phụ | Louis XIII của Pháp | ||||
Thân mẫu | Ana của Tây Ban Nha | ||||
Chữ ký |
Một phần của loạt bài về |
Văn hóa Pháp |
---|
Dân tộc |
Ẩm thực |
Văn học |
Truyền thông |
Louis XIV của Pháp (Louis Dieudonné; 5 tháng 9 năm 1638 – 1 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là Louis Đại đế (Louis the Great, Louis le Grand) hay Vua Mặt Trời (The Sun King, le Roi Soleil), là một quân chủ thuộc Nhà Bourbon, đã cai trị với danh hiệu Vua của Pháp và Navarra từ ngày 14 tháng 5 năm 1643 cho đến khi ông qua đời vào năm 1715. Ông được xem là một trong những nhà chinh phạt lớn trong lịch sử.[1] Triều đại kéo dài 72 năm 110 ngày đã khiến ông trở thành vị vua của một quốc gia có chủ quyền tại vị lâu nhất trong lịch sử.[2][a] Pháp dưới thời Louis XIV là biểu tượng của thời đại chuyên chế ở châu Âu.[4] Xung quanh nhà vua là hàng loạt nhân vật chính trị, quân sự và văn hóa quan trọng, chẳng hạn như Mazarin, Colbert, Louvois, Grand Condé, Turenne, Vauban, Boulle, Molière, Racine, Boileau, La Fontaine, Lully, Charpentier, Marais, Le Brun, Rigaud, Bossuet, Le Vau, Mansart, Charles Perrault, Claude Perrault và Le Nôtre.
Ông lên ngôi khi được 4 tuổi, và được mẹ là Ana của Tây Ban Nha nhiếp chính. Khi lên 9 tuổi, sau những cuộc nổi loạn, ông được dẫn đi ẩn náu khỏi kinh đô Paris. Ông cảm thấy bị sỉ nhục và nhất quyết muốn tự chủ, không để ai chi phối như Hồng y Richelieu đã chi phối cha ông và Hồng y Mazarin đã chi phối mẹ ông. Cũng từ đây trở về sau, ông có ác cảm với kinh đô Paris và không bao giờ muốn trở lại thành phố này. Năm 1661, khi được 23 tuổi, Louis XIV mới chính thức cai trị vương quốc sau cái chết của Hồng y Mazarin.[5] Là một người tuân thủ khái niệm về quyền lực thần thánh, Louis XIV chủ trương thiết lập một triều đình chuyên chế, xóa bỏ tàn dư phong kiến phân quyền đã ảnh hưởng sâu sắc toàn bộ nước Pháp, và một trong những việc này là tiến hành xây dựng Điện Versailles.
Năm 1666, ông chọn địa điểm của cung điện cho riêng ông, cách Paris 20 kílômét về hướng tây, rồi ra lệnh thi công. Ông huy động 36.000 công nhân, thêm 6.000 ngựa để chuyên chở vật liệu xây dựng. Thương vong của công nhân khá cao. Mỗi đêm, xe goòng đi nhặt xác chết do tai nạn nghề nghiệp. Hàng chục người chết mỗi tuần vì sốt rét. Năm 1682, Điện Versailles hoàn thành, trở thành một cung điện vĩ đại nhất thế giới. Điện Versailles không có thành lũy, vị vua đã xây cung điện trị vì không được che chắn, giữa đồng trống, để chứng tỏ một đấng quân vương đủ quyền lực không cần đến hào và tường thành để bảo vệ. Versailles trở thành biểu tượng của vị thế giàu có và quyền lực của đế chế hùng mạnh nhất châu Âu. Trên toàn lục địa, những quân vương khác – kể cả người đang có chiến tranh với Pháp – thể hiện tình thân hữu, lòng ganh tỵ và thách đố họ bằng cách xây cung điện theo mẫu Versailles. Mỗi quân vương đều muốn xây một Versailles cho riêng mình. Ngay cả những đại lộ dài và hoành tráng ở thủ đô Washington, D.C. của Mỹ, được quy hoạch 100 năm sau, cũng do một kiến trúc sư người Pháp thiết kế tổng thể theo mẫu Versailles.
Sau khi hoàn thành Điện Versailles, Louis XIV đã triệu tập các nhà quý tộc của Pháp dời đến trong triều đình để định cư, làm dịu đi những sự phân tranh của tầng lớp quý tộc, trong đó có nhiều người tham gia vào cuộc Biến loạn Fronde khi ông còn đang giai đoạn nhiếp chính. Bằng cách này, Louis XIV đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối của các Vua Pháp, được duy trì mãi tận đến khi xảy ra cuộc Cách mạng Pháp.
Quân đội Pháp bao gồm 15 vạn binh sĩ vào thời bình và 40 vạn quân tinh nhuệ trong thời chiến. Bản thân vua Louis XIV không có kinh nghiệm chiến trường, nhưng ông là nhà chiến lược và quản lý quân sự tài ba. Kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Chiến tranh, nhà vua bàn luận về vĩ mô chiến lược với các tướng lĩnh dày dạn trận mạc của ông, rồi chỉ đạo các hoạt động cung ứng quân nhu, tuyển quân, huấn luyện, tình báo quân đội... Theo thời gian, uy tín của Louis XIV và của nước Pháp dâng cao mỗi năm. Quân đội Pháp trở nên đáng sợ nhất châu Âu. Turenne - vị thống soái được Hoàng đế Napoléon Bonaparte ngợi ca là Vị tướng Pháp vĩ đại nhất - đã phò tá dưới triều vua Louis XIV.[6] Vào năm 1672, nhà vua sai tướng Turenne mang quân đi đánh Hà Lan nhưng không thành, phải rút lui.[7] Vẻ lộng lẫy của cung điện Versailles dấy lên lòng ngưỡng mộ và ganh tỵ của thế giới. Tiếng Pháp trở nên ngôn ngữ phổ cập trong ngoại giao, xã hội và văn học. Dường như bất kỳ việc gì – mọi việc – đều khả thi, nếu dưới văn bản chỉ thị có mang chữ ký cao to, nguệch ngoạc "Louis".
Những năm cuối của triều đại Louis XIV xảy ra nhiều thảm họa. Trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, liên quân Anh - Áo - Phổ do Công tước thứ nhất của Marlborough, Leopold I xứ Anhalt-Dessau và Vương công Eugène de Savoie-Carignan chỉ huy đập tan tác Quân đội vua Louis XIV trong trận đánh lớn tại Blenheim (1704)[8] - một đòn đánh cực kỳ đau vào quân Pháp.[9] Sau chiến bại thê thảm tại Blenheim, Quân đội vua Louis XIV lại bị Quận công Marlborough đại phá trong trận đánh tại Ramilies (1706).[10] Cùng năm đó, liên quân Áo - Phổ của Vương công Leopold và Vương công Eugène đè bẹp trong trận đánh tại Turin.[11] Mãi đến năm 1712, Quân đội Pháp do Thống chế Claude-Louis-Hector de Villars thống lĩnh mới đánh tan tác liên quân Áo - Hà Lan của Eugène trong trận đánh nhỏ tại Denain.[12][13] Song, người con chính thức độc nhất, người kế vị ngai vàng của nhà vua, qua đời năm 1711. Con trai của ông, Quận công của Bourgogne, hiện thân cho niềm hy vọng của nước Pháp trong tương lai, qua đời năm 1711 vì bệnh sởi ở tuổi 30. Đứa con trai trưởng của Quận công, cháu nội của Louis XIV, cũng chết vì bệnh sởi ít ngày sau.
Chỉ còn có một đứa trẻ thuộc dòng dõi kế vị ngai vàng trực tiếp, mới lên 2, là cháu kêu Louis XIV bằng ông cố. Đứa trẻ này cũng mắc bệnh sởi, nhưng thoát chết nhờ người bảo mẫu nhốt kín cậu bé và không cho phép các bác sĩ sờ đến cậu với hai bàn tay mang những bọc mọng nước. Hoàng tôn này được sống sót để trị vì nước Pháp trong 59 năm dưới hiệu là Louis XV. Trên giường bệnh, Louis XIV triệu người chắt lên 5 tuổi đến và nói: "Cháu ạ, một ngày cháu sẽ là vị Quân chủ vĩ đại. Đừng bắt chước tính hiếu chiến của ta. Hãy luôn hành xử dựa theo Chúa và khiến cho thần dân phải trọng vọng Người. Ta đau lòng mà thấy đã để cho thần dân trong tình trạng như thế."[14]
Vua Louis XIV qua đời năm 1715 sau khi trị vì 72 năm, thọ 76 tuổi. Có lẽ ông là vị Vua vĩ đại nhất của Pháp[14]. Những vị vua kế tục ông không tham vọng như ông, và huyền thoại về một lực lượng Quân đội Pháp bất khả chiến bại đã bị phá vỡ tan tành với việc họ bị Quân đội tinh nhuệ Phổ của vua Friedrich II Đại Đế đè bẹp trong trận đánh lớn tại Rossbach (1757), và sau này là đại bại trong Chiến tranh Bảy năm trước người Anh, và mất hết lãnh thổ Bắc Mỹ vào tay Anh.[15][16]
Louis XIV sinh vào ngày 5 tháng 9 năm 1638, tại Lâu đài Château de Saint-Germain-en-Laye, là con trai của Louis XIII của Pháp và vương hậu Ana của Áo. Cha mẹ của ông đã kết hôn được 23 năm trước khi sinh ra ông. Mẹ ông đã từng mang thai bốn lần, nhưng cả bốn lần đều bị hỏng. Do đó, mọi người coi ông như là một món quà mà Thiên Chúa ban tặng, và ngày sinh của ông là một phép lạ của Chúa Trời.[17] Cũng vì vậy mà ông được đặt tên Louis-Dieudonné (Louis Chúa ban)[18] và sớm mang danh hiệu Trữ quân nước Pháp: Dauphin.[19]
Năm 1643, khi đang hấp hối, Louis XIII đã chuẩn bị tất cả mọi thứ để giúp đỡ con trai mình trong những năm đầu trên ngai vàng. Ông lập một Hội đồng nhiếp chính, tạm quyền thay cho Louis trong thời gian còn thơ ấu. Trái ngược với truyền thống, ông không cho vợ Anne độc chiếm chức nhiếp chính vì ông không chắc chắn về tài năng chính trị của bà. Nhưng ông đã nhượng bộ về việc bổ nhiệm Anne trở thành người đứng đầu Hội đồng.[20]
Quan hệ giữa Louis và mẹ ông được xem là hiếm có vào thời điểm đó. Nhiều người đương thời cho rằng, Vương hậu Anne gần như đã dành toàn bộ thời gian với Louis. Cả hai đều có những sở thích về ẩm thực và nghệ thuật sân khấu. Cũng chính thái hậu đã khiến Louis vững tin thực hiện ý niệm tiến hành quân chủ chuyên chế của mình.[21]
Ngày sau khi Louis XIII qua đời vào ngày 14 tháng 5 năm 1643, Vương hậu Anne đã dùng Parlement de Paris (một cơ quan tư pháp bao gồm chủ yếu là quý tộc và giáo sĩ cao cấp) để tuyên bố hủy bỏ di chúc của chồng.[22] Hành động này đã bãi bỏ hội đồng nhiếp chính và đưa Anne trở thành Nhiếp chính duy nhất của Pháp. Sau khi lưu đày một số Bộ trưởng thân cận của chồng, Anne đã đề bạt Brienne làm Bộ trưởng Ngoại giao của mình.[23]
Anne giữ vững đường hướng chính sách tôn giáo trong tay cho đến năm 1661. Một trong những quyết định chính trị quan trọng nhất của bà là đề cử Hồng y Mazarin làm Thủ tướng, tiếp tục chính sách của người chồng quá cố và Hồng y Richelieu. Để bảo vệ Mazarin, Anne đã đày ải những ai mà bà cho rằng đang có âm mưu chống lại ông ta như Công tước Beaufort và Marie de Rohan.[24] Vương hậu cũng là người đưa ra một số định hướng cho đường lối đối ngoại của Pháp. Điều này có thể cảm nhận được khi một đồng minh của Pháp là Hà Lan đã đàm phán với Tây Ban Nha về một nền hòa bình độc lập vào năm 1648.[25]
Năm 1648, Anne và Mazarin đàm phán thành công Hòa ước Westfalen, kết thúc Chiến tranh Ba Mươi Năm.[26] Các điều khoản của hòa ước đảm bảo sự độc lập của Hà Lan khỏi Tây Ban Nha, trao một số quyền tự trị cho các hoàng tử Đức khác nhau của Đế quốc La Mã Thần thánh, và cho Thụy Điển các ghế trong Hội đồng Hoàng gia cũng như các vùng lãnh thổ để kiểm soát các cửa sông Oder, Elbe và Weser.[27] Tuy nhiên, Pháp được hưởng lợi nhiều nhất từ việc dàn xếp này. Áo dưới sự cai trị của Hoàng đế Ferdinand III đã nhượng lại tất cả các vùng đất và tuyên bố chủ quyền của nhà Habsburg ở Alsace cho Pháp và thừa nhận chủ quyền trên thực tế của mình đối với ba giáo phận Metz, Verdun và Toul.[28] Hơn nữa, với mong muốn tự giải phóng khỏi ách thống trị của Habsburg, các quốc gia nhỏ bé của Đức đã tìm kiếm sự bảo vệ của Pháp. Điều này đã dẫn đến sự hình thành của Liên đoàn sông Rhine năm 1658, làm sự suy giảm hơn nữa quyền lực của Đế quốc.
Sau khi Chiến tranh Ba Mươi Năm kết thúc, một cuộc nội chiến Fronde đã nổ ra ở Pháp. Cuộc nội chiến này cũng đã kiểm nghiệm khả năng khai thác quyền lợi từ Hòa ước Westfalen của triều đình Pháp. Anne và Mazarin chủ yếu theo đuổi các chính sách của Đức Hồng Y Richelieu, làm tăng sức mạnh của Vương vị trong giới quý tộc và Parlements. Vương Thái hậu Anne can thiệp nhiều vào chính sách đối nội hơn là đối ngoại; bà là một vương hậu rất kiêu hãnh, người kiên định với các quyền thiêng liêng của Vua nước Pháp.[29]
Tất cả những điều này đã khiến bà trở thành một nhà quyết sách mạnh mẽ trong mọi vấn đề liên quan đến quyền lực của Nhà vua, theo cách cấp tiến hơn nhiều so với chính sách do Mazarin đề xuất. Hồng y phụ thuộc hoàn toàn vào sự hỗ trợ của Anne và phải sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình lên Vương hậu để kiềm chế một số hành động cấp tiến của bà. Anne sẵn sàng bỏ tù bất kỳ ai kể cả giới quý tộc nếu họ thách thức ý chí của bà; mục đích chính của bà là chuyển giao cho con trai mình một quyền hành tuyệt đối trong các vấn đề tài chính và tư pháp. Một trong những lãnh đạo của Quốc hội Paris đã chết sau khi bị Vương hậu bắt bỏ tù.[30]
Trong bối cảnh đó, Frondeurs – những người thừa kế chính trị của tầng lớp quý tộc phong kiến – đã cực kỳ bất mãn và tìm mọi cách để bảo vệ quyền lợi bao đời nay của họ khỏi một triều đình ngày càng tập quyền. Bên cạnh đó, một lực lượng mới nổi lên là Noblesse de Robe (quý tộc áo choàng) đã dần lấy được sự tin tưởng của những người đứng đầu vương quốc. Niềm tin của triều đình càng lớn, sự phẫn uất của quý tộc càng gia tăng.
Năm 1648, Anne và Mazarin cố gắng đánh thuế các thành viên của Parlement de Paris (Quốc hội Paris). Các thành viên Quốc hội đã từ chối tuân thủ và tỏ ra phản kháng bằng cách đốt tất cả các sắc lệnh trước kia của nhà vua. Trước sự khăng khăng của Vương hậu Anne, Mazarin đã tiến hành bắt giữ một số người tham gia Trận Lens để phô trương vũ lực sau chiến thắng của Louis, duc d’Enghien (sau này được gọi là le Grand Condé).[31] Một trong những vụ bắt giữ quan trọng nhất trong mắt Anne liên quan đến Pierre Broussel, một trong những nhà lãnh đạo quan trọng nhất ở Parlement de Paris.
Bắt đầu có sự phàn nàn trong dân chúng khi quyền lực của vương thất ngày càng mở rộng, mức thuế tăng cao và quyền lực của Parlement de Paris bị cắt giảm. Dưới áp lực dữ dội sau khi Paris nổ ra bạo loạn, Anne buộc phải trả tự do cho Broussel. Vào đêm 9-10 tháng 2 năm 1651, khi Louis chỉ mới 12 tuổi, một đám đông người Paris đã xông vào cung điện và yêu cầu được gặp mặt nhà vua. Sau khi được nhìn thấy Louis trong tình trạng giả vờ ngủ, đám đông đã được xoa dịu và chấp nhận rời đi.[32]
Ngày sau đó, kết luận của Hòa ước Westfalen đã cho phép quân đội của Condé quay trở lại để trợ giúp Louis và vương thất. Vào thời điểm đó, gia đình Condé có mối quan hệ cực kỳ tốt với Anne, và ông đã đồng ý hỗ trợ Vương hậu giành lại quyền lực của nhà vua.[33] Quân đội của Vương hậu với sự đứng đầu của Condé đã tấn công vào quân nổi dậy Paris. Sau một vài trận chiến, cả hai bên đã đạt được một thỏa hiệp chính trị, Hòa ước Rueil được ký kết.
Không may cho Anne là chiến thắng một phần này của bà phụ thuộc phần lớn vào Condé – một người có dã tâm kiểm soát Vương hậu và triệt tiêu sức ảnh hưởng của Mazarin. Chính chị gái của Condé là người đã thúc đẩy anh quay lưng lại với Vương hậu. Sau khi đạt được thỏa thuận với người bạn cũ Marie de Rohan, Anne đã ra lệnh bắt giữ Condé cùng với một số người thân của ông ta gồm Armand de Bourbon, Hoàng tử xứ Conti và chồng của Anne Genevieve de Bourbon, Nữ công tước xứ Longueville. Tình trạng này cũng không kéo dài, đặc biệt việc Mazarin không được lòng dân đã dẫn đến sự hình thành của một liên minh do Marie de Rohan và Nữ công tước Longueville đứng đầu. Liên minh quý tộc này đủ mạnh để giải phóng các vương tử, đày ải Mazarin và áp đặt điều kiện quản thúc tại gia đối với Vương hậu Anne.
Louis đã chứng kiến tất cả những sự việc này, cũng từ đây mà ông ngày càng mất lòng tin đối với Paris và tầng lớp quý tộc.[34] Theo một nghĩa nào đó, thời thơ ấu của Louis đã kết thúc với sự bùng nổ của Fronde. Nó không chỉ khiến cuộc sống trở nên bất an và khó chịu mà Louis còn phải tin tưởng vào sự tin tưởng của mẹ và Mazarin cũng như những vấn đề chính trị và quân sự mà ông không thể hiểu sâu sắc".[35] Những năm Fronde đã gieo vào Louis lòng căm thù Paris và hậu quả là quyết tâm rời khỏi cố đô càng sớm càng tốt, không bao giờ quay trở lại.[36]
Louis XIV được tuyên bố đã đến tuổi trưởng thành để nắm quyền cai trị vào ngày 7 tháng 9 năm 1651. Sau cái chết của Hồng y Mazarin, vào tháng 3 năm 1661, Louis đích thân nắm quyền điều hành chính phủ và làm kinh ngạc triều đình của mình khi tuyên bố rằng ông sẽ cai trị mà không cần một thủ tướng: "Cho đến thời điểm này, tôi rất vui khi giao phó việc điều hành các công việc của mình cho cố Hồng y. Bây giờ đã đến lúc tôi tự mình điều hành chúng. Các [thư ký và bộ trưởng] sẽ hỗ trợ tôi bằng các cố vấn của mình khi tôi yêu cầu. Tôi yêu cầu và ra lệnh cho các ngài không được đóng dấu bất kỳ lệnh nào trừ khi có lệnh của tôi... Tôi ra lệnh cho các ngày không được ký bất cứ thứ gì, ngay cả hộ chiếu... nếu không có lệnh của tôi; phải giải trình với tôi mỗi ngày và không được thiên vị bất kỳ ai".[37] Tận dụng mong muốn rộng rãi của công chúng về hòa bình và trật tự sau nhiều thập kỷ xung đột trong nước và ngoài nước, vị vua trẻ đã củng cố quyền lực chính trị trung ương và bằng cách gây bất lợi cho giới quý tộc phong kiến. Ca ngợi khả năng lựa chọn và khuyến khích những người có tài năng, nhà sử học Chateaubriand lưu ý: "đó là tiếng nói của mọi thiên tài vang lên từ lăng mộ của Louis".[38]
Louis bắt đầu triều đại của mình bằng các cải cách hành chính và tài chính. Năm 1661, kho bạc đứng bên bờ vực phá sản. Để khắc phục tình hình, Louis đã chọn Jean-Baptiste Colbert làm Tổng kiểm toán Tài chính vào năm 1665. Tuy nhiên, trước tiên Louis phải vô hiệu hóa Nicolas Fouquet, Giám đốc Tài chính đầy quyền lực. Mặc dù những hành vi thiếu thận trọng về tài chính của Fouquet không khác mấy so với Mazarin trước ông hoặc Colbert sau ông, nhưng tham vọng của ông khiến Louis lo lắng. Ông đã chiêu đãi nhà vua một cách xa hoa tại lâu đài Vaux-le-Vicomte, phô trương sự giàu có mà khó có thể tích lũy được nếu không thông qua việc biển thủ tiền của chính phủ.
Fouquet tỏ ra háo hức muốn kế nhiệm Mazarin và Richelieu nắm quyền thủ tướng, ông đã mua và bí mật củng cố hòn đảo xa xôi Belle Île. Những hành động này đã định đoạt số phận của ông. Fouquet bị buộc tội biển thủ; Parlement tuyên bố ông có tội và tuyên án lưu đày; và cuối cùng Louis đã thay đổi bản án thành tù chung thân.
Sự sụp đổ quyền lực của Fouquet đã trao cho Colbert toàn quyền giảm nợ quốc gia thông qua việc đánh thuế hiệu quả hơn. Các loại thuế chính bao gồm thuế aides và thuế douanes (cả hai đều là thuế hải quan), thuế gabelle (thuế muối) và thuế taille (thuế đất). Lúc đầu, thuế taille đã được giảm và một số hợp đồng thu thuế đã được đấu giá thay vì được bán riêng cho một số ít người được ưu ái. Các viên chức tài chính được yêu cầu phải giữ sổ sách thường xuyên, xem xét lại hàng tồn kho và xóa bỏ các khoản miễn trừ trái phép: cho đến năm 1661, chỉ có 10% thu nhập từ lãnh địa hoàng gia đến tay nhà vua. Cải cách phải vượt qua các lợi ích cố hữu: thuế taille được thu bởi các viên chức của Vương quyền, những người đã mua chức vụ của họ với giá cao và việc trừng phạt những hành vi lạm dụng chắc chắn sẽ làm giảm giá trị của giao dịch mua. Tuy nhiên, Colbert đã đạt được những kết quả tuyệt vời, với thâm hụt năm 1661 chuyển thành thặng dư vào năm 1666, với lãi suất nợ giảm từ 52 triệu xuống còn 24 triệu livre. Taille giảm xuống còn 42 triệu vào năm 1661 và 35 triệu vào năm 1665, trong khi doanh thu từ thuế gián tiếp tăng từ 26 triệu lên 55 triệu. Doanh thu của lãnh địa hoàng gia đã tăng từ 80.000 livre vào năm 1661 lên 5,5 triệu vào năm 1671. Năm 1661, số tiền thu được tương đương với 26 triệu bảng Anh, trong đó 10 triệu đã vào kho bạc. Chi tiêu vào khoảng 18 triệu bảng Anh, để lại thâm hụt 8 triệu. Năm 1667, số tiền thu ròng đã tăng lên 20 triệu bảng Anh, trong khi chi tiêu đã giảm xuống còn 11 triệu, để lại thặng dư 9 triệu bảng Anh.
Tiền là nguồn hỗ trợ thiết yếu cho quân đội được tổ chức lại và mở rộng, cho quân đội Versailles và cho chính quyền dân sự đang phát triển. Tài chính luôn là điểm yếu của chế độ quân chủ Pháp: việc thu thuế tốn kém và không hiệu quả; thuế trực tiếp giảm dần khi chúng đi qua tay nhiều viên chức trung gian; và thuế gián tiếp được thu bởi các nhà thầu tư nhân được gọi là nông dân thuế, những người đã kiếm được một khoản lợi nhuận lớn. Kho bạc nhà nước bị rò rỉ ở mọi ngóc ngách.
Điểm yếu chính nảy sinh từ một thỏa thuận cũ giữa vương quyền Pháp và giới quý tộc: nhà vua có thể tăng thuế cho quốc gia mà không cần sự đồng ý nếu ông ta miễn thuế cho giới quý tộc. Chỉ những tầng lớp "không có đặc quyền" mới phải trả thuế trực tiếp, tức là chỉ dành cho nông dân, vì hầu hết những người tư sản đều gian lận để được miễn thuế theo cách này hay cách khác. Hệ thống này đổ toàn bộ gánh nặng chi tiêu của nhà nước lên lưng những người nghèo và yếu thế. Sau năm 1700, với sự ủng hộ của người vợ bí mật ngoan đạo của Louis là Madame de Maintenon, nhà vua đã bị thuyết phục thay đổi chính sách tài chính của mình. Mặc dù sẵn sàng đánh thuế giới quý tộc, Louis vẫn lo sợ những nhượng bộ chính trị mà họ sẽ yêu cầu để đổi lại. Chỉ đến khi triều đại của ông kết thúc trong tình trạng chiến tranh cực kỳ cấp bách, ông mới có thể, lần đầu tiên trong lịch sử nước Pháp, áp đặt thuế trực tiếp lên tầng lớp quý tộc. Đây là một bước tiến tới bình đẳng trước pháp luật và hướng tới nền tài chính công lành mạnh, mặc dù nó đã bị suy giảm một cách có thể dự đoán được do những nhượng bộ và miễn trừ giành được nhờ những nỗ lực bền bỉ của giới quý tộc và tư sản.[39]
Louis và Colbert cũng có những kế hoạch rộng khắp để phát triển thương mại và mậu dịch của Pháp. Chính quyền trọng thương của Colbert đã thành lập các ngành công nghiệp mới và khuyến khích các nhà sản xuất và nhà phát minh, chẳng hạn như các nhà sản xuất lụa Lyon và xưởng sản xuất thảm thêu Gobelins. Ông đã mời các nhà sản xuất và nghệ nhân từ khắp châu Âu đến Pháp, chẳng hạn như thợ làm thủy tinh Murano, thợ sắt Thụy Điển và thợ đóng tàu Hà Lan. Ông đặt mục tiêu giảm lượng nhập khẩu trong khi tăng lượng xuất khẩu của Pháp, do đó giảm lượng kim loại quý chảy ra từ Pháp.
Louis đã tiến hành cải cách trong chính quyền quân sự thông qua Michel le Tellier và con trai ông là François-Michel le Tellier, Hầu tước de Louvois kế nhiệm. Họ đã giúp kiềm chế tinh thần độc lập của giới quý tộc, áp đặt trật tự lên họ tại triều đình và trong quân đội. Đã qua rồi cái thời các vị tướng kéo dài chiến tranh ở biên giới trong khi cãi vã về tiền lệ và phớt lờ mệnh lệnh từ kinh đô và bức tranh chiến lược lớn hơn, với tầng lớp quý tộc quân sự cũ (noblesse d'épée, quý tộc kiếm) độc quyền các vị trí quân sự cấp cao và cấp bậc cao hơn. Louvois hiện đại hóa quân đội và tổ chức lại thành một lực lượng chuyên nghiệp, kỷ luật và được đào tạo bài bản. Ông tận tụy với đời sống vật chất và tinh thần của binh lính, thậm chí còn cố gắng chỉ đạo các chiến dịch.
Những cải cách pháp lý của Louis đã được ban hành trong nhiều Sắc lệnh lớn của ông. Trước đó, nước Pháp là một mớ hỗn độn các hệ thống pháp luật, với nhiều chế độ pháp lý truyền thống như số tỉnh và hai hệ thống pháp luật cùng tồn tại—luật tục ở phía bắc và luật dân sự La Mã ở phía nam. Grande Ordonnance de Procédure Civile năm 1667, hay còn gọi là Bộ luật Louis, là một bộ luật toàn diện áp đặt quy định thống nhất về thủ tục dân sự trên toàn vương quốc. Trong số những điều khác, nó quy định hồ sơ rửa tội, kết hôn và tử vong trong sổ đăng ký của nhà nước, không phải của nhà thờ, và nó quy định chặt chẽ quyền phản đối của Nghị viện.[40] Bộ luật Louis sau đó đã trở thành cơ sở cho bộ luật Napoleon, sau đó truyền cảm hứng cho nhiều bộ luật hiện đại.
Một trong những sắc lệnh khét tiếng hơn của Louis là Grande Ordonnance sur les Colonies năm 1685, hay còn gọi là Bộ luật Noir (bộ luật đen). Mặc dù cho phép chế độ nô lệ tồn tại, nhưng nó đã cố gắng nhân bản hóa việc thực hành này bằng cách cấm việc chia cắt các gia đình. Ngoài ra, tại các thuộc địa, chỉ những người theo Công giáo La Mã mới được sở hữu nô lệ và những người này phải được rửa tội.
Louis cai trị thông qua một số hội đồng:
Cái chết của người cậu ruột cũng là cha vợ của Louis là Vua Felipe IV của Tây Ban Nha vào năm 1665 đã thúc đẩy Chiến tranh Phân quyền. Năm 1660, Louis đã kết hôn với con gái cả của Felipe IV là María Teresa của Tây Ban Nha, theo một trong những điều khoản của Hiệp ước Pyrenees năm 1659.[42] Hiệp ước hôn nhân nêu rõ rằng Maria Theresa phải từ bỏ mọi yêu sách đối với lãnh thổ Tây Ban Nha cho chính mình và tất cả con cháu của bà.[42] Tuy nhiên, Mazarin và Lionne đã đưa ra điều kiện từ bỏ là phải trả đầy đủ của hồi môn của Tây Ban Nha là 500.000 écu.[43] Của hồi môn không bao giờ được trả và sau đó đã đóng một vai trò trong việc thuyết phục người anh họ đầu tiên của mình là Carlos II của Tây Ban Nha để lại đế chế của mình cho Philip, Công tước xứ Anjou (sau này là Felipe V của Tây Ban Nha), cháu nội trai của Louis XIV và Maria Theresa.
Chiến tranh Phân quyền không tập trung vào việc trả của hồi môn; thay vào đó, việc thiếu thanh toán là cái cớ mà Louis XIV sử dụng để vô hiệu hóa việc Maria Theresa từ bỏ yêu sách của bà, cho phép đất đai "chuyển giao" cho ông. Ở Công quốc Brabant (vị trí của vùng đất đang tranh chấp), theo truyền thống, con cái của cuộc hôn nhân đầu tiên không bị thiệt thòi do cha mẹ tái hôn và vẫn được thừa kế tài sản. Vợ của Louis là con gái của Filipe IV từ cuộc hôn nhân đầu tiên của ông, trong khi vị vua mới của Tây Ban Nha, Carlos II, là con trai của ông từ cuộc hôn nhân sau đó. Do đó, Brabant được cho là "chuyển giao" cho Maria Theresa, biện minh cho việc Pháp tấn công Hà Lan thuộc Tây Ban Nha.
Trong Chiến tranh Tám mươi năm với Tây Ban Nha, Pháp ủng hộ Cộng hòa Hà Lan như một phần của chính sách chung chống lại quyền lực của Quân chủ Habsburg. Johan de Witt, Grand pensionary của Hà Lan từ năm 1653 đến năm 1672, coi đây là điều quan trọng đối với an ninh của Hà Lan và là đối trọng với những người theo Thân vương xứ Oranje trong nước. Louis đã hỗ trợ trong Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai 1665-1667 nhưng đã lợi dụng cơ hội này để phát động Chiến tranh Phân quyền vào năm 1667. Cuộc chiến tranh này đã chiếm được Franche-Comté và phần lớn Hà Lan thuộc Tây Ban Nha; sự bành trướng của Pháp ở khu vực này là mối đe dọa trực tiếp đến lợi ích kinh tế của Hà Lan.[44]
Người Hà Lan đã mở các cuộc đàm phán với Vua Charles II của Anh trên mặt trận ngoại giao chung chống lại Pháp, dẫn đến Liên minh ba bên, giữa Anh, Hà Lan và Thụy Điển. Mối đe dọa về một cuộc leo thang và một hiệp ước bí mật để chia cắt các thuộc địa của Tây Ban Nha với Hoàng đế Leopold I của Thánh chế La Mã, một người yêu sách lớn khác đối với ngai vàng của Tây Ban Nha, đã khiến Louis từ bỏ nhiều lợi ích của mình trong Hiệp ước Aix-la-Chapelle năm 1668.[45]
Louis không tin tưởng nhiều vào thỏa thuận của mình với Hoàng đế Leopold I và vì giờ đây rõ ràng là mục tiêu của Pháp và Hà Lan đang xung đột trực tiếp, ông quyết định trước tiên là đánh bại Cộng hòa Hà Lan, sau đó chiếm lấy Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Điều này đòi hỏi phải phá vỡ Liên minh ba bên; ông trả tiền cho Thụy Điển để họ giữ thái độ trung lập và ký Hiệp ước bí mật Dover năm 1670 với Charles, một liên minh Anh-Pháp chống lại Cộng hòa Hà Lan. Vào tháng 5 năm 1672, Pháp xâm lược Hà Lan, được Giáo phận vương quyền Münster và Tuyển hầu xứ Köln ủng hộ.[46]
Quá trình tiến quân nhanh chóng của Pháp đã dẫn đến một cuộc đảo chính lật đổ De Witt và đưa Willem Hendrik lên nắm quyền. Hoàng đế Leopold coi sự bành trướng của Pháp vào vùng Rhineland là mối đe dọa ngày càng tăng, đặc biệt là sau khi họ chiếm được Công quốc Lorraine chiến lượt vào năm 1670. Viễn cảnh về thất bại của Hà Lan đã khiến Leopold liên minh với Brandenburg-Phổ vào ngày 23 tháng 6, sau đó là một liên minh khác với Hà Lan vào ngày 25.[47] Mặc dù Brandenburg buộc phải rút khỏi chiến tranh theo Hiệp ước Vossem tháng 6 năm 1673, nhưng vào tháng 8, một liên minh chống Pháp đã được thành lập bởi Hà Lan, Tây Ban Nha, Hoàng đế Leopold và Karl IV Công tước xứ Lorraine.[48]
Liên minh của Pháp rất không được lòng dân Anh, và càng không được lòng dân hơn sau những trận chiến đáng thất vọng chống lại hạm đội của Michiel de Ruyter. Charles II của Anh đã ký kết hòa bình với Hà Lan theo Hiệp ước Westminster vào tháng 2 năm 1674. Tuy nhiên, quân đội Pháp có những lợi thế đáng kể so với đối thủ của họ; một bộ chỉ huy không bị chia cắt, những vị tướng tài năng như Tử tước xứ Turenne, Thân vương xứ Condé và Công tước xứ Luxembourg với hậu cần vượt trội hơn hẳn. Các cải cách do Louvois, Bộ trưởng Chiến tranh, đưa ra đã giúp duy trì các đội quân dã chiến lớn có thể được huy động nhanh hơn nhiều, cho phép họ tiến hành các cuộc tấn công vào đầu mùa xuân trước khi đối thủ của họ sẵn sàng.[49]
Tuy nhiên, người Pháp buộc phải rút lui khỏi hầu hết Cộng hòa Hà Lan, điều này khiến Louis vô cùng sốc; ông đã rút lui về St Germain trong một thời gian, nơi không ai, ngoại trừ một vài người thân cận, được phép làm phiền ông.[50] Tuy nhiên, lợi thế quân sự của Pháp đã cho phép họ giữ vững lập trường của mình ở Alsace và Hà Lan thuộc Tây Ban Nha trong khi chiếm lại Franche-Comté. Đến năm 1678, sự kiệt quệ của cả hai bên đã dẫn đến Hiệp ước Nijmegen, về cơ bản đã được giải quyết có lợi cho Pháp và cho phép Louis can thiệp vào Chiến tranh Scanian. Bất chấp thất bại về mặt quân sự, đồng minh của ông là Thụy Điển đã giành lại được phần lớn những gì đã mất theo các hiệp ước Saint-Germain-en-Laye, Fontainebleau và Hòa ước Lund năm 1679, áp đặt lên Đan Mạch-Na Uy và Brandenburg.[51] Tuy nhiên, hai mục tiêu chính của Louis, phá hủy Cộng hòa Hà Lan và chinh phục Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, đã thất bại.[52]
Louis đang ở đỉnh cao quyền lực, nhưng phải trả giá bằng việc đoàn kết những người chống đối; điều này gia tăng khi ông tiếp tục bành trướng. Năm 1679, ông sa thải bộ trưởng ngoại giao Simon Arnauld, hầu tước xứ Pomponne, vì ông bị coi là đã thỏa hiệp quá nhiều với các đồng minh. Louis duy trì sức mạnh của quân đội, nhưng trong loạt yêu sách lãnh thổ tiếp theo của mình, ông tránh sử dụng vũ lực quân sự một mình. Thay vào đó, ông kết hợp nó với các lý do hợp pháp trong nỗ lực mở rộng ranh giới của vương quốc. Các hiệp ước đương thời được diễn đạt một cách mơ hồ. Louis thành lập Chambres des Réunions để xác định phạm vi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo các hiệp ước đó.
Các thành phố và vùng lãnh thổ, như Luxembourg và Casale, được đánh giá cao vì vị trí chiến lược của chúng trên biên giới và khả năng tiếp cận các tuyến đường thủy quan trọng. Louis cũng tìm đến Strasbourg, một cửa khẩu chiến lược quan trọng ở bờ trái sông Rhein và trước đó là Thành phố Đế chế Tự do của Đế chế La Mã Thần thánh, sáp nhập thành phố này và các vùng lãnh thổ khác vào năm 1681. Mặc dù là một phần của Alsace, Strasbourg không phải là một phần của Alsace do Habsburg cai trị và do đó không được nhượng cho Pháp trong Hòa ước Westphalia.
Sau những lần sáp nhập này, Tây Ban Nha tuyên chiến, dẫn đến Chiến tranh Reunion. Tuy nhiên, người Tây Ban Nha đã nhanh chóng bị đánh bại vì Hoàng đế (bị phân tâm bởi Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ) đã bỏ rơi họ, và người Hà Lan chỉ hỗ trợ họ ở mức tối thiểu. Theo Hiệp định đình chiến Ratisbon, năm 1684, Tây Ban Nha buộc phải chấp nhận sự chiếm đóng của Pháp đối với hầu hết các vùng lãnh thổ đã chinh phục trong 20 năm.[53]
Chính sách của Louis về Réunion có thể đã đưa nước Pháp lên tầm cao nhất về quy mô và sức mạnh trong suốt thời kỳ trị vì của ông, nhưng nó lại khiến nhiều nước châu Âu xa lánh. Dư luận tiêu cực này trở nên tồi tệ hơn do các hành động của Pháp ngoài khơi Bờ biển Barbary và tại Genoa. Đầu tiên, Louis đã cho pháo kích Algiers và Tripoli, hai thành trì của cướp biển Barbary, để giành được một hiệp ước có lợi và giải phóng nô lệ theo đạo Thiên chúa. Tiếp theo, vào năm 1684, một hạm đội trừng phạt đã được phát động chống lại Genoa để trả đũa việc nước này ủng hộ Tây Ban Nha trong các cuộc chiến tranh trước đó. Mặc dù người Genoa đã khuất phục và Doge đã dẫn đầu một phái bộ chính thức xin lỗi Versailles, nhưng nước Pháp vẫn nổi tiếng là tàn bạo và kiêu ngạo. Sự lo ngại của châu Âu trước sức mạnh ngày càng tăng của Pháp và nhận ra mức độ ảnh hưởng của các cuộc tấn công bằng Dragonnades (sẽ được thảo luận bên dưới) đã khiến nhiều quốc gia từ bỏ liên minh [54] Theo đó, vào cuối những năm 1680, nước Pháp ngày càng trở nên cô lập ở châu Âu.
Các thuộc địa của Pháp gia tăng ở châu Phi, châu Mỹ và châu Á trong thời kỳ trị vì của Louis IV, và các nhà thám hiểm người Pháp đã có những khám phá quan trọng ở Bắc Mỹ. Năm 1673, Louis Jolliet và Jacques Marquette đã phát hiện ra sông Mississippi. Năm 1682, René-Robert Cavelier, Sieur de La Salle, đã đi theo sông Mississippi đến Vịnh Mexico và tuyên bố lưu vực sông Mississippi rộng lớn được đặt theo tên của Vua Louis XVI, gọi nó là Louisiane. Các trạm giao dịch của Pháp cũng được thành lập ở Ấn Độ, tại Chandernagore và Pondicherry, và ở Ấn Độ Dương tại Île Bourbon. Trên khắp các khu vực này, Louis và Colbert đã bắt tay vào một chương trình kiến trúc và quy hoạch đô thị rộng lớn nhằm phản ánh phong cách của Versailles, Paris và 'gloire' của vương quốc. [55]
Trong khi đó, quan hệ ngoại giao đã được khởi xướng với các quốc gia xa xôi. Năm 1669, Suleiman Aga đã lãnh đạo một đoàn sứ thần Đế quốc Ottoman đến Pháp để khôi phục lại Liên minh Pháp-Ottoman.[56] Sau đó, vào năm 1682, sau khi tiếp đón đoàn sứ thần Morocco của Mohammed Tenim tại Pháp, Moulay Ismail, Sultan của Morocco, đã cho phép các cơ sở thương mại và lãnh sự của Pháp tại quốc gia của mình.[57] Năm 1699, Louis một lần nữa tiếp đón sứ thàn Morocco là Abdallah bin Aisha, và năm 1715, ông tiếp đón đoàn sứ thần Ba Tư do Mohammad Reza Beg dẫn đầu.
Ở xa hơn, Siam đã phái một đoàn sứ thần đến Pháp vào năm 1684, được người Pháp đáp lại một cách nhiệt thành vào năm sau bằng cách cử Alexandre, Chevalier de Chaumont đến Siam. Đến lượt mình, một đoàn sứ Siam khác do Kosa Pan dẫn đầu, được tiếp đón nồng hậu tại Versailles vào năm 1686. Sau đó, Louis đã phái một đoàn sứ khác vào năm 1687, dưới quyền Simon de la Loubère, và ảnh hưởng của Pháp ngày càng tăng tại triều đình Siam, nơi đã cấp cho Pháp một căn cứ hải quân tại Mergui. Tuy nhiên, cái chết của Narai, Vua của Ayutthaya, vụ hành quyết bộ trưởng thân Pháp Constantine Phaulkon và cuộc bao vây Bangkok năm 1688 đã chấm dứt kỷ nguyên ảnh hưởng của Pháp vào nước này.[58]
Pháp cũng đã cố gắng tham gia tích cực vào các phái bộ truyền giáo của Dòng Tên đến Nhà Thanh. Để phá vỡ sự thống trị của Bồ Đào Nha ở đó, Louis đã cử các nhà truyền giáo Dòng Tên đến triều đình của Hoàng đế Khang Hy vào năm 1685: Jean de Fontaney, Joachim Bouvet, Jean-François Gerbillon, Louis Le Comte và Claude de Visdelou.[55] Louis cũng đã tiếp một tu sĩ Dòng Tên người Đại Thanh, Michael Shen Fu-Tsung, tại Versailles vào năm 1684.[59] Hơn nữa, thủ thư và biên dịch viên của Louis là Arcadio Huang là người Trung Quốc.[60][61]
Vào đầu những năm 1680, Louis đã tăng cường đáng kể ảnh hưởng của Pháp trên trường quốc tế. Trong nước, ông đã thành công trong việc gia tăng ảnh hưởng của vương quyền và thẩm quyền của nó đối với nhà thờ và tầng lớp quý tộc, do đó củng cố chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp.
Louis ban đầu ủng hộ chủ nghĩa Gallica truyền thống, hạn chế quyền lực của Giáo hoàng ở Pháp và triệu tập một Hội đồng giáo sĩ Pháp vào tháng 11 năm 1681. Trước khi giải tán 8 tháng sau, Hội đồng đã chấp nhận Tuyên bố của Giáo sĩ Pháp, tăng quyền lực của hoàng gia bằng cách làm giảm quyền lực của Lãnh địa Giáo hoàng. Nếu không có sự chấp thuận của hoàng gia, các giám mục không thể rời khỏi Pháp và không thể kháng cáo lên Giáo hoàng. Ngoài ra, các quan chức chính phủ không thể bị khai trừ vì những hành vi phạm tội khi thực hiện nhiệm vụ của họ. Mặc dù nhà vua không thể ban hành luật tôn giáo, nhưng mọi quy định của Giáo hoàng mà không có sự chấp thuận của hoàng gia đều không có giá trị ở Pháp. Không có gì ngạc nhiên khi Giáo hoàng đương nhiệm khi đó là Innôcentê XI bác bỏ Tuyên bố này.[5]
Bằng cách đưa các nhà quý tộc đến triều đình của mình tại Versailles, Louis đã đạt được quyền kiểm soát ngày càng tăng đối với tầng lớp quý tộc Pháp. Theo sử gia Philip Mansel, nhà vua đã biến cung điện thành:
Các căn hộ được xây dựng để làm nơi ở cho những người sẵn sàng trả tiền cho nhà vua.[60] Tuy nhiên, lương hưu và các đặc quyền cần thiết để sống theo phong cách phù hợp với cấp bậc của họ chỉ có thể có được bằng cách liên tục phục vụ Louis.[63] Vì mục đích này, một nghi lễ cung đình phức tạp đã được tạo ra trong đó nhà vua trở thành tâm điểm chú ý và được công chúng quan sát suốt cả ngày. Với trí nhớ tuyệt vời của mình, Louis sau đó có thể biết ai đã phục vụ ông tại triều đình và ai vắng mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân phối các ưu đãi và chức vụ sau đó. Một công cụ khác mà Louis sử dụng để kiểm soát giới quý tộc của mình là kiểm duyệt, thường liên quan đến việc mở thư để phân biệt ý kiến của người viết về chính phủ và nhà vua.[60] Hơn nữa, bằng cách giải trí, gây ấn tượng và thuần hóa họ bằng sự xa hoa và những trò tiêu khiển khác, Louis không chỉ vun đắp dư luận về mình mà còn đảm bảo rằng giới quý tộc vẫn nằm trong tầm ngắm của ông.
Sự xa hoa của Louis tại Versailles đã vượt xa phạm vi các nghi lễ cung đình cầu kỳ. Ông đã nhận một con voi châu Phi làm quà tặng từ vua Bồ Đào Nha.[64] Ông khuyến khích các nhà quý tộc hàng đầu đến sống tại Versailles. Điều này, cùng với lệnh cấm quân đội tư nhân, đã ngăn cản họ dành thời gian ở điền trang của riêng mình và ở các căn cứ quyền lực trong lãnh địa của họ, nơi mà họ thường tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ và âm mưu chống lại chính quyền hoàng gia. Do đó, Louis đã ép buộc và dụ dỗ giới quý tộc quân sự cũ (giới "quý tộc kiếm") trở thành cận thần nghi lễ của mình, làm suy yếu thêm quyền lực của họ. Thay vào đó, ông đã nuôi dưỡng những người dân thường hoặc giới quý tộc quan liêu mới được phong làm quý tộc (giới "quý tộc áo choàng"). Ông phán đoán rằng quyền lực hoàng gia phát triển mạnh mẽ hơn bằng cách bổ nhiệm những người này vào các vị trí hành chính và điều hành cấp cao vì họ có thể dễ dàng bị sa thải hơn so với những quý tộc có dòng dõi lâu đời và có ảnh hưởng cố hữu. Người ta tin rằng các chính sách của Louis bắt nguồn từ những trải nghiệm của ông trong thời kỳ Fronde, khi những người đàn ông có dòng dõi cao quý sẵn sàng tham gia vào cuộc nổi loạn chống lại nhà vua của họ, người thực sự là họ hàng của một số người. Chiến thắng này trước giới quý tộc có thể đã đảm bảo chấm dứt các cuộc nội chiến lớn ở Pháp cho đến Cách mạng Pháp khoảng một thế kỷ sau đó.
Dưới thời Louis XIV, Pháp là cường quốc hàng đầu châu Âu và hầu hết các cuộc chiến đều xoay quanh tính hiếu chiến của nước này. Không có quốc gia châu Âu nào vượt qua Pháp về dân số và không nhà nước đương thời nào có thể sánh được với sự giàu có, vị trí trung tâm và quân đội chuyên nghiệp rất mạnh của Pháp. Pháp đã phần lớn tránh được sự tàn phá của Chiến tranh Ba mươi năm. Điểm yếu của Pháp bao gồm hệ thống tài chính kém hiệu quả, khó có thể chi trả cho các cuộc phiêu lưu quân sự của mình và xu hướng của hầu hết các cường quốc khác liên kết chống lại Pháp.
Trong thời kỳ trị vì của Louis, Pháp đã tiến hành ba cuộc chiến tranh lớn: Chiến tranh Pháp-Hà Lan, Chiến tranh Chín năm và Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Ngoài ra còn có hai cuộc xung đột nhỏ hơn: Chiến tranh Phân cấp và Chiến tranh Tái hợp.[65] Các cuộc chiến tranh này rất tốn kém nhưng đã định hình chính sách đối ngoại của Louis XIV và tính cách của ông đã định hình cách tiếp cận của ông. Được thúc đẩy "bởi sự kết hợp giữa thương mại, trả thù và sự tức giận", Louis cảm thấy rằng chiến tranh là cách lý tưởng để nâng cao vinh quang của mình. Trong thời bình, ông tập trung vào việc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh tiếp theo. Ông dạy các nhà ngoại giao của mình rằng nhiệm vụ của họ là tạo ra lợi thế chiến thuật và chiến lược cho quân đội Pháp.[66] Đến năm 1695, Pháp vẫn giữ được phần lớn quyền thống trị của mình nhưng đã mất quyền kiểm soát vùng biển vào tay Vương quốc Anh và Cộng hòa Hà Lan, và hầu hết các quốc gia, cả Tin Lành và Công giáo, đều liên minh chống lại Pháp. Sébastien Le Prestre de Vauban, nhà chiến lược quân sự hàng đầu của Pháp, đã cảnh báo Louis vào năm 1689 rằng một "Liên minh" thù địch sẽ quá mạnh trên biển. Ông khuyến nghị Pháp nên phản công bằng cách cấp phép cho các tàu buôn của Pháp quyền tấn công và bắt giữ các tàu buôn của đối phương trong khi tránh xa hải quân của họ:
Vauban bi quan về những người được gọi là bạn bè và đồng minh của Pháp:
Louis quyết định đàn áp những người Tin Lành và hủy bỏ Sắc lệnh Nantes năm 1598, sắc lệnh trao cho những người Huguenot quyền tự do chính trị và tôn giáo. Ông coi sự tồn tại dai dẳng của đạo Tin Lành là lời nhắc nhở đáng xấu hổ về sự bất lực của hoàng gia. Xét cho cùng, Sắc lệnh là sự nhượng bộ thực dụng của ông nội ông là Henri IV của Pháp nhằm chấm dứt các cuộc Chiến tranh tôn giáo lâu đời ở Pháp. Một yếu tố khác trong suy nghĩ của Louis là nguyên tắc thịnh hành của châu Âu đương thời nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội, Cuius regio, eius religio ("vương quốc của ai, tôn giáo của người đó"), ý tưởng rằng tôn giáo của người cai trị phải là tôn giáo của vương quốc (như đã được xác nhận ban đầu ở Trung Âu trong Hòa ước Tôn giáo Augsburg năm 1555).[69]
Đáp lại các kiến nghị, ban đầu Louis loại những người Tin Lành khỏi các chức vụ, hạn chế các cuộc họp của các giáo đoàn, đóng cửa các nhà thờ bên ngoài các khu vực được Sắc lệnh quy định, cấm những người rao giảng Tin Lành ngoài trời và cấm di cư Tin Lành trong nước. Ông cũng không cho phép các cuộc hôn nhân giữa người Tin Lành và Công giáo mà bên thứ ba phản đối, khuyến khích các sứ mệnh cho người Tin Lành và khen thưởng những người cải đạo sang Công giáo.[70] Sự phân biệt đối xử này không gặp phải nhiều sự phản đối của người Tin Lành và một sự cải đạo ổn định của người Tin Lành đã diễn ra, đặc biệt là trong giới tinh hoa quý tộc.
Năm 1681, Louis đã tăng cường đàn áp người Tin Lành một cách đáng kể. Nguyên tắc Cuius regio, eius religio nói chung cũng có nghĩa là những đối tượng từ chối cải đạo có thể di cư, nhưng Louis đã cấm di cư và thực sự nhấn mạnh rằng tất cả người Tin Lành phải cải đạo. Thứ hai, theo đề xuất của René de Marillac và Hầu tước Louvois, ông bắt đầu cho lính kỵ binh ở trong nhà của người Tin Lành. Mặc dù điều này nằm trong quyền hợp pháp của ông, nhưng các cuộc tấn công bởi dragonnades đã gây ra gánh nặng tài chính nghiêm trọng cho người Tin Lành và sự lạm dụng tàn bạo. Từ 300.000 đến 400.000 người Huguenot đã cải đạo, vì điều này đòi hỏi phần thưởng tài chính và được miễn khỏi các cuộc tấn của dragonnades.[71]
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1685, Louis ban hành Sắc lệnh Fontainebleau, trích dẫn sự dư thừa các đặc quyền dành cho người Tin Lành do sự khan hiếm của họ sau những cuộc cải đạo rộng rãi. Sắc lệnh Fontainebleau đã bãi bỏ Sắc lệnh Nantes và bãi bỏ mọi đặc quyền phát sinh từ đó.[5] Theo sắc lệnh của mình, Louis không còn chấp nhận sự tồn tại của các nhóm Tin Lành, mục sư hoặc nhà thờ của họ ở Pháp. Không được xây dựng thêm nhà thờ nào nữa và những nhà thờ đã tồn tại sẽ bị phá bỏ. Các mục sư có thể lựa chọn sống lưu vong hoặc thế tục. Những người Tin Lành đã chống lại việc cải đạo giờ đây sẽ bị rửa tội cưỡng bức vào nhà thờ Công giáo đã thành lập.[72]
Các nhà sử học đã tranh luận về lý do Louis ban hành Sắc lệnh Fontainebleau. Ông có thể đang tìm cách xoa dịu Giáo hoàng Innocent XI, người có mối quan hệ căng thẳng và sự hỗ trợ của ông là cần thiết để quyết định kết quả của cuộc khủng hoảng kế vị tại Tuyển hầu xứ Köln. Ông cũng có thể đã hành động để qua mặt Hoàng đế Leopold I của Thánh chế La Mã và giành lại uy tín quốc tế sau khi người này đánh bại Đế quốc Ottoman mà không cần sự giúp đỡ của Louis. Nếu không, ông có thể chỉ muốn chấm dứt những chia rẽ còn lại trong xã hội Pháp có từ thời Chiến tranh tôn giáo bằng cách thực hiện lời thề đăng quang của mình là xóa bỏ tà giáo.[73][74]
Nhiều nhà sử học đã lên án Sắc lệnh Fontainebleau là có hại nghiêm trọng cho nước Pháp.[75] Để ủng hộ, họ trích dẫn cuộc di cư của khoảng 200.000 người Huguenot có trình độ cao (khoảng một phần tư dân số theo đạo Tin Lành, hoặc 1% dân số Pháp) đã bất chấp các sắc lệnh của hoàng gia và chạy trốn khỏi Pháp đến các quốc gia theo đạo Tin Lành khác nhau, làm suy yếu nền kinh tế Pháp và làm giàu cho nền kinh tế của các quốc gia theo đạo Tin Lành. Mặt khác, một số nhà sử học coi đây là một sự cường điệu. Họ lập luận rằng hầu hết các doanh nhân và nhà công nghiệp theo đạo Tin Lành hàng đầu của Pháp đã cải sang Công giáo và vẫn ở lại.[76]
Điều chắc chắn là phản ứng đối với Sắc lệnh này là trái chiều. Ngay cả khi các nhà lãnh đạo Công giáo Pháp hân hoan, Giáo hoàng Innocent XI vẫn tranh luận với Louis về chủ nghĩa Gallica và chỉ trích việc sử dụng bạo lực. Những người theo đạo Tin Lành trên khắp châu Âu kinh hoàng trước cách đối xử với những người cùng tôn giáo, nhưng hầu hết những người theo đạo Công giáo ở Pháp đều hoan nghênh động thái này. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng hình ảnh công khai của Louis ở hầu hết châu Âu, đặc biệt là ở các khu vực theo đạo Tin Lành, đã bị giáng một đòn nặng nề.
Tuy nhiên, cuối cùng, mặc dù có những căng thẳng mới với người Camisard ở miền nam-trung nước Pháp vào cuối triều đại của mình, Louis có thể đã giúp đảm bảo rằng người kế nhiệm ông sẽ ít gặp phải những trường hợp xáo trộn dựa trên tôn giáo hơn đã từng gây ra tai họa cho tổ tiên của ông. Xã hội Pháp sẽ thay đổi đủ nhiều vào thời hậu duệ của ông, Louis XVI, để chào đón sự khoan dung thông qua Sắc lệnh Versailles năm 1787, còn được gọi là Sắc lệnh khoan dung. Sắc lệnh này đã khôi phục lại quyền công dân và quyền tự do thờ cúng công khai cho những người không theo đạo Công giáo.[77] Với sự ra đời của Cách mạng Pháp năm 1789, những người theo đạo Tin Lành đã được trao quyền bình đẳng với những người theo Công giáo La Mã.
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Dữ liệu từ Wikidata |