Đế quốc Gupta

Vương triều Gupta
Thế kỷ thứ 4 sau công nguyên–Cuối thế kỷ thứ 6 sau công nguyên
Phạm vi gần đúng của lãnh thổ Gupta (màu hồng) vào năm 375 CN
Phạm vi gần đúng của
lãnh thổ Gupta (màu hồng) vào năm 375 CN
Phạm vi gần đúng của các lãnh thổ Gupta (màu hồng) vào năm 450 CN
Phạm vi gần đúng của các lãnh thổ
Gupta (màu hồng) vào năm 450 CN
Thủ đôPataliputra
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Phạn (văn học và học thuật); Prakrit (tiếng địa phương)
Tôn giáo chính
Chính trị
Chính phủChế độ quân chủ
• C. cuối thế kỷ thứ 3
Gupta (đầu tiên)
• c. 540 – c. 550 CE
Vishnugupta
Lịch sử
Thời kỳẤn Độ cổ đại
• Thành lập
Thế kỷ thứ 4 sau công nguyên
• Giải thể
Cuối thế kỷ thứ 6 sau công nguyên
Địa lý
Diện tích 
• 400 est.[1]
3.500.000 km2
(1.351.358 mi2)
• 440 est.[2]
1.700.000 km2
(656.374 mi2)
Tiền thân
Kế tục
Đế chế Kushan
Phía Tây Satraps
Nagas của Padmavati
Vương triều Mahameghavahana
Vương triều Murunda
Hậu Gupta
Maukhari
Maitraka
Vương triều Vardhana
Vương triều Mathara
Vương triều Shailodbhava
Vương triều Varman
Đế quốc Gauda
Kalachuris
Đế quốc Gurjara
Vương triều Nala
Vương triều Sharabhapuriya
Rajarsitulyakula
Rai dynasty
Alchon Huns
Hiện nay là một phần củaẤn Độ

Pakistan Bangladesh

Afghanistan

Đế quốc Gupta hay Vương triều Gupta là một đế chế cổ đại của Ấn Độ tồn tại từ đầu thế kỷ 4 CN đến cuối thế kỷ 6 CN. Vào thời kỳ cực thịnh, từ khoảng năm 319 đến năm 467 CN, đế quốc bao phủ phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ.[3] Thời kỳ này được các nhà sử học coi là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ.[4][note 1] Vương triều cai trị của đế chế do đức vua Sri Gupta thành lập; các nhà cai trị đáng chú ý nhất của triều đại là Chandragupta I, Samudragupta, và Chandragupta II, còn được gọi là Vikramaditya. Nhà thơ tiếng PhạnKalidasa ở thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên đã ghi công những người Gupta đã chinh phục khoảng 21 vương quốc, cả trong và ngoài Ấn Độ, bao gồm các vương quốc Parasika, Hunas, Kamboja, các bộ lạc nằm ở phía tây và phía đông thung lũng Oxus, Kinnara, Kirata và những tộc khác.[6]

Đỉnh cao của sáng tạo văn hóa thời kì này là các tuyệt tác kiến trúc, điêu khắc và hội họa.[7] Thời kì Gupta đã sản sinh ra các học giả như Kalidasa, Aryabhata, Varahamihira, Vishnu SharmaVatsyayana, những người đã tạo ra những tiến bộ lớn trong nhiều lĩnh vực học thuật.[8][9]

Những thiên sử thi đầu tiên của Ấn Độ cũng được cho là đã được viết khoảng thời gian này. Đế chế dần dần suy yếu do nhiều nguyên nhân như mất dần các vùng lãnh thổ và quyền lực hoàng đế gây ra bởi các chư hầu thuở trước của họ và cuộc xâm lược của dân tộc Huna từ Trung Á [10] Sau khi đế quốc Gupta sụp đổ vào thế kỷ thứ 6, Ấn Độ, một lần nữa được cai trị bởi rất nhiều vương quốc trong khu vực. Một dòng nhỏ của gia tộc Gupta tiếp tục cai trị xứ Magadha sau khi đế quốc tan rã. Triều đại Gupta này cuối cùng bị lật đổ bởi vị vua Vardhana Harsha Vardhana, người thành lập một đế chế trong nửa đầu của thế kỷ thứ 7.

Nguồn gốc của nhà Gupta

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo nhiều sử gia, Đế quốc Gupta là nhà Vaishya.[11][12] Sử gia Ram Sharan Sharma khẳng định rằng Vaishya Guptas "xuất hiện như một hành động nhằm chống lại sự áp bức của nhà cầm quyền".[13] A.S. Altekar, một sử gia và nhà khảo cổ học, ông đã viết nhiều quyển sách về tiền đúc Gupta,[14] cũng như đã đề cập đến đẳng cấp của Guptas như là Vaishya dựa trên cơ sở của các văn bản Ấn Độ cổ theo luận, trong đó quy định các tên cuối cùng với Gupta cho các thành viên của dòng dõi Vaishya. Theo sử gia Michael C. Brannigan, sự lớn mạnh của đế quốc Gupta là một trong những sự phá rối nổi bật nhất trong hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ cổ đại.[12]

Có nhiều giả thuyết trái ngược nhau về nơi phát sinh ra đế quốc Gupta. Theo HC Raychoudhuri, Gupta bắt nguồn từ vùng Varendri, hiện là một phần của Rangpur và Rajshahi thuộc Bangladesh. DC Ganguly thì cho rằng đó là nơi xung quanh khu vực Murshidabad.[15]

Srigupta và Ghatotkacha

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời gian có thể nhất về triều đại của Sri Gupta vào khoảng 240–280. Nhiều nhà sử học hiện đại trong đó có Rakhaldas Bandyopadhyay và K. P. Jayaswal, cho rằng ông và con trai ông có thể là chư hầu của Kushan.[16] Con trai ông và là người kế nhiệm Ghatotkacha có lẽ đã lên ngôi vào khoảng 280–319. Trái ngược với người kế nhiệm của họ Chandragupta I, ông được xem là một Maharajadhiraja, ông và con trai ông Ghatotkacha được đề cập trong câu khắc là Maharaja[17] Vào đầu thế kỷ 5, nhà Gupta đã thành lập và cai quản một vài vương quốc Hindu nhỏ ở Magadha và xung quanh vùng mà ngày nay là Bihar.

Sự suy sụp của các nhà cầm quyền yếu kém như Samudragupta (467–473), Kumaragupta II (473–476), Budhagupta (476–495?), Narasimhagupta, Kumaragupta III, Vishnugupta, VainyaguptaBhanugupta. Vào thập niên 480, Hephthalites đã phá vỡ các hàng phòng thủ của Gupta ở phía tây bắc, và phần lớn đế chế ở tây bắc bị tràn ngập người Hung vào năm 500. Đế chế tan rã dưới sự tấn công của Toramana và hậu duệ của ông là Mihirakula. Xuất hiện trong các văn liệu rằng Gupta, mặc dù quyền lực của họ bị giảm đi nhiều, nhưng vẫn tiếp tục chống lại người Hung. Kẻ xâm lược người Hung Toramana bị Bhanugupta đánh bại vào năm 510.[18][19] Người Hung đã bị đánh bại và bị đuổi ra khỏi Ấn Độ vào năm 528  bởi một liên minh bao gồm hoàng đế Gupta Narasimhagupta và vua YashodharmanMalwa.[20] Sự kế thừa của Gupta trong thế kỷ 6 thì không hoàn toàn rõ ràng, nhưng sự kết thúc của dòng chính đế chế này là vua Vishnugupta, trị vì từ 540 đến 550. Ngoài sự xâm chiếm của người Hung, các yếu tố khác cũng góp phần làm suy sụp chế chế như sự canh tranh giữa các Vakatakas và sự nổi dậy của Yashodharman ở Malwa.[21]

[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ thuật và kiến trúc

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ Gupta thường được coi là đỉnh cao cổ điển của nghệ thuật Ấn Độ phương Bắc đối với tất cả các nhóm tôn giáo lớn. Mặc dù hội họa đã phổ biến một cách rõ ràng, nhưng các tác phẩm còn sót lại hầu như đều là điêu khắc tôn giáo. Thời kỳ này chứng kiến sự xuất hiện của các vị thần bằng đá được chạm khắc mang tính biểu tượng trong nghệ thuật Ấn Độ giáo, cũng như tượng Phật và Jain tirthankara sau này thường đều ở quy mô rất lớn. Hai trung tâm điêu khắc lớn là MathuraGandhara, sau này là trung tâm của nghệ thuật Phật giáo Greco. Cả hai đều xuất khẩu tác phẩm điêu khắc sang các vùng khác của miền bắc Ấn Độ.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Turchin, Peter; Adams, Jonathan M.; Hall, Thomas D (tháng 12 năm 2006). “East-West Orientation of Historical Empires”. Journal of World-Systems Research. 12 (2): 223. doi:10.5195/JWSR.2006.369. ISSN 1076-156X.
  2. ^ Taagepera, Rein (1979). “Size and Duration of Empires: Growth-Decline Curves, 600 B.C. to 600 A.D”. Social Science History. 3 (3/4): 121. doi:10.2307/1170959. JSTOR 1170959.
  3. ^ Gupta Dynasty – MSN Encarta. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2009.
  4. ^ N. Jayapalan, History of India, Vol. I, (Atlantic Publishers, 2001), 130.
  5. ^ Jha, D.N. (2002). Ancient India in Historical Outline. Delhi: Manohar Publishers and Distributors. tr. 149–73. ISBN 978-81-7304-285-0.
  6. ^ Raghu Vamsa v 4.60–75
  7. ^ Gupta dynasty (Indian dynasty). Britannica Online Encyclopedia. Truy cập 2011-11-21.
  8. ^ Mahajan, p. 540
  9. ^ Gupta dynasty: empire in 4th century. Britannica Online Encyclopedia. Truy cập 2011-11-21.
  10. ^ Agarwal, Ashvini (1989). Rise and Fall of the Imperial Guptas, Delhi:Motilal Banarsidass, ISBN 81-208-0592-5, pp.264–9
  11. ^ Nehra, R.K. Hinduism and Its Military Ethos. Lancer Publishers,2010. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2012.
  12. ^ a b Brannigan, Michael C. Striking a Balance: A Primer in Traditional Asian Values. Rowman & Littlefield, 2010. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2012.
  13. ^ Sharma, R.S. Early Medieval Indian Society: A Study in Feudalisation. Books.google.co.in. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  14. ^ List of Altekar's publications in the Open Library.
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  16. ^ Agarwal, Ashvini (1989). Rise and Fall of the Imperial Guptas, Delhi:Motilal Banarsidass, ISBN 81-208-0592-5, pp.84–7
  17. ^ Majumdar, p. 474
  18. ^ Ancient Indian History and Civilization by Sailendra Nath Sen p.220
  19. ^ Encyclopaedia of Indian Events & Dates by S. B. Bhattacherje p.A15
  20. ^ Columbia Encyclopedia
  21. ^ Singh, Upinder (2008). A History of Ancient and Early Medieval India: From the Stone Age to the 12th Century. New Delhi: Pearson Education. tr. 480. ISBN 978-81-317-1677-9.

Ghi chú

  1. ^ Although this characterisation has been disputed by D. N. Jha.[5]

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Andrea Berens Karls & Mounir A. Farah. World History The Human Experience.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Zhihu] Điều gì khiến bạn từ bỏ một mối quan hệ
[Zhihu] Điều gì khiến bạn từ bỏ một mối quan hệ
Khi nào ta nên từ bỏ một mối quan hệ
Nhân vật Narberal Gamma (Nabe) - Overlord
Nhân vật Narberal Gamma (Nabe) - Overlord
Narberal Gamma (ナ ー ベ ラ ル ・ ガ ン マ, Narberal ・ Γ) là một hầu gái chiến đấu doppelgänger và là thành viên của "Pleiades Six Stars
[Giả thuyết] Paimon là ai?
[Giả thuyết] Paimon là ai?
Trước tiên là về tên của cô ấy, tên các vị thần trong lục địa Teyvat điều được đặt theo tên các con quỷ trong Ars Goetia
Ngôn ngữ của trầm cảm - Language use of depressed and depression
Ngôn ngữ của trầm cảm - Language use of depressed and depression
Ngôn ngữ của người trầm cảm có gì khác so với người khỏe mạnh không?