Một phần của loạt bài về |
Thiền sư Việt Nam |
---|
|
|
- Pháp Hiền, Huệ Nghiêm, Thanh Biện
- Định Không, Đinh La Quý, Vô Ngại
- Pháp Thuận, Thiền Ông, Sùng Phạm
- Ma Ha, Pháp Bảo, Vạn Hạnh
- Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát
- Thuần Chân, Đạo Pháp, Huệ Sinh
- Minh Không, Bản Tịch, Thiền Nham
- Quảng Phúc, Khánh Hỉ, Giới Không
- Pháp Dung, Thảo Nhất, Trí Thiền
- Đạo Lâm, Chân Không, Tịnh Thiền
- Diệu Nhân, Viên Học, Viên Thông,
- Y Sơn
|
- Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong
- Khuông Việt, Đa Bảo, Định Hương
- Thiền Lão, Viên Chiếu, Cứu Chỉ
- Bảo Tính, Minh Tâm, Quảng Trí
- Thông Biện, Đa Vân
- Mãn Giác, Ngộ Ấn, Biện Tài
- Đạo Huệ, Bảo Giám, Không Lộ
- Bản Tịnh, Bảo Giác, Viên Trí
- Giác Hải, Trí Thiền, Tịnh Giới
- Tịnh Không, Đại Xả, Tín Học
- Trường Nguyên, Tĩnh Lực, Trí Bảo
- Minh Trí, Quảng Nghiêm, Thường Chiếu
- Trí Thông, Thần Nghi, Thông Thiền
- Hiện Quang, Tức Lự, Ứng Thuận
|
- Bát Nhã, Ngộ Xá
- Ngô Ích, Hoằng Minh, Không Lộ
- Định Giác, Phạm Âm, Đạt Mạn
- Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Đỗ Thường
- Hải Tịnh, Lý Cao Tông, Nguyễn Thức, Phạm Phụng Ngự
|
- Đạo Viên, Thông Thiền, Nhật Thiển
- Tức Lự, Chí Nhàn, Ứng Thuận
- Tiêu Dao, Tuệ Trung, Trần Thái Tông
- Trần Nhân Tông, Thạch Kim
- Pháp Loa, Hương Sơn, Pháp Cổ
- Huyền Quang, Cảnh Huy, Quế Đường
- Chân Nguyên, Hương Hải
- Thanh Từ
|
|
- Thủy Nguyệt, Thạch Liêm
- Tông Diễn, Từ Sơn, Tính Chúc
- Hải Điện, Khoan Dực, Thanh Đàm
- Minh Liễu, Đạo Sinh, Quang Lư
- Vô Tướng, Tâm Nghĩa, Mật Ứng
- Đức Nhuận, Duy Lực
|
Cổng thông tin Phật giáo |
|
Đỗ Đô (1042-1170), đạo hiệu là Đạt Mạn thiền sư, quê Hoàng giang trấn Hải Dương (giáp Đông Triều và Yên Tử), sau theo cha mẹ về sống ở làng Ngoại Lãng (làng Lạng) nay thuộc xã Song Lãng huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình. Cùng với vua Lý Anh Tông, Đỗ Đô là thiền sư thuộc thế hệ thứ ba của thiền phái Thảo Đường, mà đệ tử đầu tiên của dòng thiền là vua Lý Thánh Tông. Năm 1066 triều Lý Thánh Tông, Đỗ Đô được cử đi sang Trung Quốc tham dự khoa thi Bạch Liên của nhà Tống (tựa như khoa thi tiến sĩ về Phật học), và đã đỗ thủ khoa. Trở về nước, Đỗ Đô được vua Thánh Tông cử làm quan văn tới chức Vệ Đại phu và ban pháp hiệu là Đạt Mạn. Về sau Đỗ Đô xin vua xây dựng và tu hành tại chùa Phúc Thắng (chùa Lạng) trang Ngoại Lãng.