Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Bách Việt | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tượng một người đàn ông với mái tóc ngắn kiểu Việt điển hình và những hình xăm trên cơ thể từ nước Việt thời Xuân Thu (nay thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiếng Trung | 百越 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Nghĩa đen | Bách Việt | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Việt (chữ Hán: 越/粵; bính âm: yuè), hoặc Bách Việt (chữ Hán: 百越/百粵; bính âm: bǎi yuè, bǎik wyuèt), là các nhóm dân cư thuộc Ngữ hệ Nam Á và Ngữ hệ Kra-Dai định cư và sinh sống ở tại vùng đất phía Nam Trường Giang mà chiếu theo lãnh thổ nhà Hán thì hiện bao trọn miền Nam Trung Quốc và Đồng bằng sông Hồng của Bắc Bộ Việt Nam.[1][2] Đây cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các bộ tộc này sinh sống hoặc mang tính văn hóa hoặc ngôn ngữ có liên quan. Trong tiếng Trung Quốc cổ, các chữ (越, 粵, 鉞) đã thường được dùng thay thế nhau cho nghĩa "Yue". Từ "Baiyue" ("Bách Việt") lần đầu được thấy chép là trong cuốn Sử ký Tư Mã Thiên thời nhà Hán năm 91 trước công nguyên (TCN) trong khi từ "Yue" ("Việt") thì xuất hiện từ thời nhà Thương theo Giáp cốt văn được khai quật, ước tính vào khoảng những năm 1200 TCN.[3]
Theo huyền thoại của lịch sử Việt Nam, một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ tiên của các dân tộc Bách Việt. Lãnh thổ nước Văn Lang (hay Lĩnh Nam) của các Hùng Vương, theo huyền sử cũng trùng với vùng đất Bách Việt.[4] Các bằng chứng về ngôn ngữ học cho thấy Vietic Nguyên thủy (Proto-Vietic), ngôn ngữ tổ tiên của tiếng Việt, tiếng Mường, Chứt, tiếng Thavưng (Thaveung), Cuối,... có nguồn gốc từ các tỉnh Khammouane và Bolikhamxay thuộc Lào với một số phân bố qua sườn bên kia của dãy Sai Phou Louang (Annamite) (tức dãy Trường Sơn), phía bắc đến Nghệ An và phía đông đến Quảng Bình, nghĩa là xa về phía nam của đồng bằng sông Hồng.[note 1][note 2]
Một số học giả [5][6] liệt kê các đặc điểm văn hóa của các nhóm tộc Việt như sau:
Các kết quả khảo cổ học có hỗ trợ cho cách phân chia đơn giản này. Các cổ vật đặc trưng cho nhóm thứ nhất, nhóm Bắc, bao gồm đồ gốm hình học (geometric pottery), xẻng đá lớn (large stone shovel), và đồ đồng kiểu Sở. Đặc điểm của nhóm thứ hai, nhóm Nam, là các đồ đồng kiểu tây nam, việc sử dụng các loại dụng cụ đồ đá đa dạng, hầu như không thấy đồ gốm hình học và xẻng đá lớn [7]. Nhóm phía Nam bắt đầu từ Việt Nam và kéo dài theo vùng ven biển lên tới khu vực Tây Nam tỉnh Quảng Đông.[8] Phát triển từ các nhóm văn hóa thời đại đồ đá cũ bản địa, sự tiếp nối của nhóm này đã được ghi nhận. Đó là các xã hội phát triển cao với một nền tảng nông nghiệp và một bộ đầy đủ các loại đồ gốm và đồ đá. Một điểm khác biệt rõ nét khác để phân tách hai nhóm chính là sự phát triển của một trong những loại cổ vật quan trọng nhất của khu vực: trống đồng được tìm thấy chủ yếu ở các vùng Vân Nam, Quảng Tây, và miền Bắc Việt Nam. Xem thêm bài Trống đồng.
Hai địa điểm khảo cổ thời Đồ Đá Mới được biết nhiều đến ở Quảng Tây là động Bailian gần Liễu Châu (柳州) và Zhenpi Yan gần Quế Lâm (桂林). Các đồ vật tìm thấy tại Bailian Dong được xác định theo định tuổi bằng cacbon-14 cách đây khoảng từ 30.000 đến 7.500 năm. Còn niên đại tại Zhenpi Yan được xác định vào khoảng 10.000 năm trước. Có hơn 400 mộ được cho là của tổ tiên người Tráng đã được phát hiện ở vùng này. Trong các mộ này, xác người được chôn ở tư thế nằm co, một kiểu chôn rất hiếm thấy ở Trung Quốc nhưng lại được tìm thấy rất nhiều ở Việt Nam. Theo Jeffrey Barlow,[9], những người thổ dân của vùng này có nguồn gốc ở phía Nam và có mối quan hệ gần gũi với các nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn ở Việt Nam.
Một số học giả đặt giả thuyết rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn minh Thần Nông ở phía Nam sông Dương Tử (nghĩa là thuộc vùng đất Bách Việt). Có người còn cho rằng đây là sản phẩm của người Âu Việt và Lạc Việt[10][11][12][13][14].
Chiến Quốc sách mô tả về người nước Việt (Ư Việt) và nước Ngô thời Xuân Thu (nay thuộc các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang - Trung Quốc) như sau:
Người Ư Việt để tóc ngắn và xăm trổ trên người, vai phải để trần và buộc chặt quần áo bên trái. Ở nước Ngô, họ đánh răng đen và làm cho khuôn mặt sần sùi, họ đội những chiếc mũ làm bằng da cá và [quần áo] được khâu lại bằng một chiếc dùi.[15]
Người Hán gọi các dân tộc "man rợ" không phải người Hán khác nhau ở miền nam Trung Quốc là "Bách Việt", nói rằng họ có những thói quen thích ứng với nước, cắt tóc ngắn và xăm mình.[16] Người Hán cũng nói rằng ngôn ngữ của họ giống như "súc vật kêu" và họ thiếu luân lý, khiêm tốn, văn minh và văn hóa.[17][18] Theo lời kể của một người Hán nhập cư vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên: Người Việt cắt tóc ngắn, xăm trổ đầy mình, sống trong những rặng tre, không thành thị hay làng mạc, không sở hữu cung tên, ngựa hay xe ngựa."[19][20][21] Họ cũng nhuộm đen răng.[22]
Về mặt quân sự, các nước Việt và Ngô thời Xuân Thu khác với các quốc gia Hán tộc khác vì họ sở hữu hải quân.[23] Không giống như các nhà nước khác của Trung Quốc thời đó, họ cũng đặt tên cho thuyền và kiếm.[24] Một văn bản Trung Quốc mô tả nước Việt thời Xuân Thu đã sử dụng thuyền làm xe và mái chèo làm ngựa của họ.[25] Vùng đất đầm lầy ở phía nam đã tạo cho người Câu Ngô và Ư Việt những đặc điểm riêng biệt. Theo Robert Marks, các tộc Bách Việt sống ở khu vực ngày nay là tỉnh Phúc Kiến kiếm sống chủ yếu từ đánh cá, săn bắn và một số loại hình canh tác nương rẫy.[26] Trước khi người Hán di cư từ phương bắc đến, các bộ tộc Bách Việt trồng lúa nước, đánh cá và đốt nương làm rẫy, thuần hóa trâu nước, xây dựng nhà sàn, xăm mặt và thống trị các vùng ven biển từ bờ biển đến các thung lũng màu mỡ ở vùng núi nội địa.[27][28][29][30][31][32][33] Giao thông đường thủy là tối quan trọng ở phía Nam, vì vậy hai nước Ngô và Việt đã trở nên tiên tiến trong việc đóng tàu và phát triển công nghệ chiến tranh hàng hải, lập bản đồ các tuyến đường thương mại đến các bờ biển phía Đông của Trung Quốc và Đông Nam Á.[34][35]
Nước Việt thời Xuân Thu nổi tiếng về kiếm thuật và sản xuất những thanh kiếm tốt. Theo Ngô Việt Xuân Thu, Việt vương Câu Tiễn đã gặp một nữ kiếm sĩ tên là Nanlin (Việt nữ), người đã thể hiện sự tinh thông kiếm thuật và vì vậy ông đã sai năm người tùy tướng của mình học hỏi kiếm thuật của cô. Kể từ đó, môn kiếm thuật này được biết đến với cái tên "Việt Nữ Kiếm". Người Việt cũng được biết đến với việc sở hữu những thanh kiếm thần bí có sức mạnh bùa chú của rồng hoặc các sinh vật lưỡng cư khác.[36]
Người phụ nữ đang đi về phía bắc để yết kiến vua [Câu Tiễn của nước Việt] thì gặp một ông già trên đường, ông ta tự giới thiệu mình là Lãnh chúa Nguyên. Anh ta hỏi người phụ nữ: "Tôi nghe nói rằng cô giỏi kiếm thuật, tôi muốn được thấy tận mắt." Người phụ nữ nói: "Tôi không dám giấu giếm điều gì; thưa ngài, ngài có thể thử thách tôi." Lãnh chúa Nguyên sau đó đã chọn một cây trúc, phần ngọn của nó đã bị héo. Anh ta bẻ [những chiếc lá] và ném chúng xuống đất nhưng người phụ nữ đã nhặt được chúng [trước khi chúng rơi xuống đất]. Lãnh chúa Nguyên sau đó nắm lấy đầu dưới của cây tre và đâm người phụ nữ. Cô phản đòn, họ đánh nhau ba trận và ngay khi người phụ nữ nâng cây gậy để tấn công anh ta, Lãnh chúa Nguyên bay vào ngọn cây và trở thành một con vượn trắng (Nguyên).[37]
Chiến Quốc sách có đề cập đến chất lượng cao của kiếm phương nam và khả năng chém xuyên qua trâu, ngựa, bát, chậu nhưng sẽ vỡ nếu chém trúng cột hoặc đá. Kiếm của nước Ngô và nước Việt được đánh giá cao và những người sở hữu chúng hầu như không bao giờ sử dụng chúng vì sợ hư hại. Tuy nhiên, ở nước Ngô và nước Việt, những thanh kiếm này là bình thường và được đối xử kém tôn kính hơn.[38] Việt Tuyệt Thư (Ghi chép về những thanh kiếm quý) đề cập đến một số thanh kiếm nổi danh: Trạm Lư (湛卢), Haocao (Dũng cảm), Cự Khuyết (巨阙), Lutan (Màn sương), Thuần Quân (纯钧), Thắng Tà (胜邪), Ngư Trường (鱼肠), Long Uyên (龙渊), Thái A (泰阿) và Công Bố (工布). Nhiều thanh danh kiếm trong số này được rèn bởi thợ rèn kiếm người Việt là Âu Dã Tử.[39]
Kiếm giữ một vị trí đặc biệt trong văn hóa của các vương quốc Ngô và Việt cổ đại. Truyền thuyết về thanh kiếm được ghi lại ở đây sớm hơn và chi tiết hơn nhiều so với bất kỳ vùng nào khác của Trung Quốc và điều này phản ánh cả sự phát triển của công nghệ chế tạo kiếm tinh vi và tầm quan trọng của những lưỡi kiếm này trong nền văn hóa cổ đại ở miền Nam Trung Quốc. Cả Ngô và Việt đều nổi tiếng trong số các nước đương thời về số lượng và chất lượng của những thanh kiếm mà họ sản xuất, nhưng mãi đến sau này, vào thời nhà Hán, truyền thuyết về chúng mới lần đầu tiên được thu thập. Những câu chuyện này đã trở thành một phần quan trọng của thần thoại Trung Quốc và giới thiệu những thợ rèn huyền thoại như Can Tương 干將 và Mạc Tà 莫耶 trong những câu chuyện nổi tiếng trong nhiều thiên niên kỷ. Những câu chuyện này sẽ giữ cho danh tiếng của nghề rèn kiếm của nước Ngô và Việt tồn tại, nhiều thế kỷ sau khi các vương quốc này biến mất và thực sự vào một thời kỳ mà kiếm đã trở nên hoàn toàn lỗi thời ngoài mục đích nghi lễ bởi sự phát triển của công nghệ quân sự.[40]
— Olivia Milburn
Ngay cả sau khi Ngô và Việt được hòa nhập vào các triều đình lớn hơn ở Trung Quốc, ký ức về những thanh kiếm của họ vẫn còn tồn tại. Vào thời nhà Hán, Ngô vương Lưu Tỵ (195-154 TCN) có một thanh kiếm mang tên Việt Kiếm để tôn vinh lịch sử chế tác kim loại ở vương quốc của ông.[41]
Tiếng Việt:
Tiếng Anh: