Cây sự sống

Cây sự sống trên thiên đường - Hình minh họa thế kỷ 15

Cây sự sống (tiếng Hebrew: עֵץ הַחַיִּים - Ec ha-Chajim) là cây trong vườn địa đàng theo Kinh Thánh, sinh trái ăn vào sẽ được bất tử.[1] Mặc dù mô típ thần thoại về hình ảnh cây dùng để trang trí đã xuất hiện trong tín ngưỡng của nhiều dân tộc như Lưỡng Hà tiền sử hay Ai Cập, Hy Lạp, Babylonia, Ba TưẤn Độ cổ đại, Cây sự sống là biểu tượng chỉ xuất hiện trong các thánh thư Do Thái giáo (tiếng Yiddish: Ejc Hachajim[2]) cũng như Kitô giáo (tiếng Latinh: Arbor Vitae hay Arbor Crucis, Crux Florida) coi như báo trước về hình ảnh Đấng Messiah bị đóng đinh. Cây sự sống với tư cách hình mẫu văn hóa tượng trưng cho sự tái sinh vĩnh cửu của tự nhiên đồng thời là sự trải qua của số phận con người. Đối với Kitô hữu, cây gỗ làm nên thập tự giá đánh dấu cái chết lại khởi đầu cho sự sống.

Cây trong tín ngưỡng

[sửa | sửa mã nguồn]

Mô típ cái cây kết nối các thế giới khác nhau có mặt trong nhiều tôn giáo. Trong thần thoại Hindu đó là cây bồ đề linh thiêng (Ficus religiosa), còn trong thần thoại Bắc Âucây tần bì Yggdrasil thể hiện trục thế giới và liên quan đến khái niệm cây vũ trụ. Người Sami thì sáng tạo ra mô típ cây không gian đảo ngược.[3] Mô típ cây thần kỳ ban ra sự bất tử có thể tìm thấy trong thần thoại Hy Lạp về Mười hai kỳ công của Heracles đi tìm trái táo vàng Hesperides.[4] Theo truyền thống Yakut, cây thiêng "cổ thụ không biết bao nhiêu thế kỷ. Rễ cắm sâu đến hạ giới còn ngọn xuyên đến tận cửu thiên. Lá dài bảy sải còn trái đến chín sải".[5] Các dân tộc còn phổ biến mô típ cây cối là nơi linh hồn và thần thánh trú ngụ như vào thời Ai Cập cổ đại, họ quan niệm các thần ngự tại cây vả (Ficus sycomorus) linh thiêng. Thổ dân Úc và một số dân tộc Trung Hoa còn chung chủ đề về một cái cây tạo thành cầu nối với thế giới bên kia. Các dân tộc Slav coi những lùm cây sồi là nơi thần linh hiện thân.[3]

Kinh Torah từ nhà hội Do Thái ở Köln

Thần thoại Lưỡng Hà

[sửa | sửa mã nguồn]

Quan niệm cây thiêng kết nối các thế giới khác nhau có liên hệ mật thiết đến mô típ của một loài thực vật tượng trưng kiếp người đã qua và bản thể tự nhiên được tái sinh liên tục.[3]

Sử thi Gilgamesh bằng tiếng Akkad mô tả vị anh hùng sau khi chứng kiến cái chết của người bằng hữu đã bắt đầu hành trình tìm kiếm sự sống vĩnh cửu. Gilgamesh phát hiện một loài cây ăn vào sẽ giúp cải lão hoàn đồng và trở nên bất tử. Tuy nhiên, con rắn lợi dụng lúc Gilgamesh bất cẩn mà nuốt mất cái cây đó.[6] Cây thiêng[7][8] cách điệu hóa, trang trí và thờ phụng là chủ đề thường thấy trong nghệ thuật tiền sử Lưỡng Hà. Hình ảnh này được phát hiện trên các đồ tạo tác tại Lưỡng Hà cổ đại thiên niên kỷ 4 TCN cũng như muộn hơn vào thiên niên 2 TCN của các bộ tộc Cận Đông gồm Ai Cập, Hy LạpVăn minh sông Ấn. Các nhà khoa học chưa làm sáng tỏ được ý nghĩa mô típ này và chưa thể khẳng định khái niệm Cây sự sống đã tồn tại Lưỡng Hà cổ đại hay không, nhưng có sự tương đồng rõ nét với mô típ Cây sự sống về sau trong văn hóa Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo. Như vậy, họ vẫn thường sử dụng thuật ngữ "cây thiêng" một cách phân biệt khi đề cập đến thần thoại Lưỡng Hà.[8] Có lẽ thần thoại Ba Tư tiền sử kết hợp giữa Ấn-Iran và Semitic đã đặt nền tảng cho quan niệm về cái cây khổng lồ cao tới bầu trời hoặc chính vòm cây là vòm trời với mặt trời treo trên đó và sinh trái ăn vào bất tử. Người Chaldea thì có câu chuyện cây khổng lồ mọc ở Eridu được chim mặt trời canh giữ và mô típ cây cọ sinh trái xuất hiện vào thiên niên kỷ 2 TCN.[9]

Do Thái giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Mô típ cây nhiều màu trong Nhà hội Do Thái ở Dura Europos (thế kỷ 3)

Cây sự sống mọc giữa vườn địa đàng xuất hiện ba lần trong sách Sáng Thế Ký. Sau khi ăn trái Cây biết điều thiện và điều ác, Adam và Eva bị trục xuất khỏi vườn để không chạm được vào trái Cây sự sống là thứ sẽ cho phép bất tử. Trong Sách Châm Ngôn, Cây sự sống là một ẩn dụ cho khôn ngoan và công chính, còn trong sách Midrash, ngụy kinhgiả kinh, cây này có liên quan đến nhân vật thực sự. Mỗi tác giả đưa ra một chi tiết riêng nhưng đều có điểm chung là mô tả mang tính ngụ ngôn. Kinh Torah được tượng trưng như Cây sự sống là "sự sống vĩnh cửu gieo vào tâm trí chúng ta". Do đó các thanh cuộn kinh Torah được gọi là acej chajim[2][10] (số nhiều của ec chajim[11]), trên đó trang trí hình trái lựu gọi là rimmonim.[2] Trong số các đồ tạo tác bằng đất nung thuộc về di vật bàn thờ dâng hương ở Taanak gần Megiddo, một bức phù điêu có niên đại từ thế kỷ 8 TCN mô tả Cây sự sống cùng hai con sơn dương.[9] Mô típ Cây sự sống cũng được nhận diện trên các trang trí nhiều màu còn lại trong phòng pháp điển của nhà hội Do Thái xây dựng khoảng năm 244–245 ở Dura Europos, nay là miền tây Syria.[12][13]

Đèn Menora có hình Cây sự sống

Thuyết mạt thế đặt Cây sự sống làm một thành tố thiết yếu trong Cõi Lai thế (Olam ha-Ba), trong đó người công chính có thể ăn trái cây sự sống.[2] Thi Thiên 1 (1:3) đề cập đến Cây sự sống trồng gần dòng nước, lá chẳng tàn héo bao giờ, còn Sách Ê-xê-chi-ên (47:12) nói về "cây có trái ăn được, lá nó không hề héo rụng, và trái nó không hề dứt""Trái nó dùng để ăn, lá nó dùng để làm thuốc."[9] Cây sự sống còn là tiêu đề một số trước tác tôn giáo ("Ec Chajim", "Ec ha-Chajim"). Trong Kabbalah, nó được xếp vào danh sách thần bí và phúng dụ.[2] Khoảng thế kỷ 16-17 có tác phẩm thuộc dòng này là "Ec Chajim" (Cây sự sống) do rabbi và nhà thần bí Hayyim ben Joseph Vital viết ra.[14][15] Nhà thần bí Kabbalah thế kỷ 16 Moses ben Jacob Cordovero tuyên bố Cây sự sống tăng cường nhân đôi ánh sáng, mô tả bằng ánh sáng thường (jashar) đồng thời kết hợp với ánh sáng phản xạ (chozer) tạo ra bản chất sự hiện diện của Thượng Đế. Luồng sáng này cũng ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của mỗi Sephirah.[16]

Cây sự sống cũng được hình tượng hóa cách điệu trên đèn menora (מְנוֹרָה),[2][9] một mô típ đôi khi bắt gặp trong nhà hội Do Thái trang trí trên bema và phòng pháp điển.[17] Còn trong nghệ thuật Do Thái khi được bố trí cùng với sư tử và kỳ lân, đây là biểu tượng sức mạnh Vương quốc Israel thống nhất được khôi phục.[18]

Hồi giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

"Cây vĩnh cửu" được nhắc đến trong Kinh Qur'an[19] kết hợp hình ảnh Cây sự sống với Cây biết điều thiện và điều ác và là phép ẩn dụ về sự bất tuân của loài người với Thượng Đế. Shaytan không cám dỗ Adam và Eve bằng tri thức mà đánh vào ham muốn bất tử. Như trong Kinh Thánh, hình phạt là trục xuất khỏi vườn Địa đàng.[20]

Truyền thống Thiên Chúa giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Cây sự sống trang trí thánh giá Nhà thờ Thánh Giacôbê ở Toruń (cuối thế kỷ 14)[21][22]

Từ thế kỷ 1, Kitô hữu đã nhìn thấy trong Cựu Ước những hình bóng về Đấng Mesiah chịu khổ hình thập tự giá. Vào thế kỷ 2, Justinô Tử đạo trong "Đối thoại với Tryfo" đã nêu Cây sự sống là hình bóng loan báo về Chúa Giê-su.[23] Justinô chỉ ra một loạt dẫn chứng cho điều này như Isaiah tiên báo "Có một chồi sẽ nứt lên từ gốc Y-sai", Thi Thiên của David thì nói "người công bình... như cây trồng gần dòng nước, sanh bông trái theo thì tiết, lá nó cũng chẳng tàn héo", tiên tri Jeremiah công bố "Còn tôi, như chiên con dễ biểu bị dắt đến chỗ giết, tôi chẳng biết họ mưu toan nghịch cùng tôi, mà rằng: Hãy diệt cả cây và trái, dứt khỏi đất người sống, hầu cho danh nó chẳng được nhớ đến nữa." Justinô cũng đề cập đến cây gậy Moses dùng rẽ nước Biển Đỏ (Xuất 14:16, 21) hay đập cho nước chảy ra từ tảng đá (Xuất 17:5–6).[24] Trong Kinh Thánh Bản Bảy Mươi tiếng Hy Lạp, cũng có nhiều chỗ "cây" (ξύλον) ám chỉ đến "Cây sự sống".[25][26]

Giáo phụ Irênê thành Lugdunum sống ở thế kỷ 2 cũng nói nhắc đến cây trong vườn Địa đàng mang nghĩa thập tự của Chúa Giê-su và ý tưởng về cây vũ trụ: "Sự vi phạm này vốn được cái cây trợ giúp đã bị sự vâng phục loại bỏ mà Con Người chịu đinh đóng vào cây, khước từ sự biết điều ác mà mang đến sự biết điều thiện."[26][27]

Thời giáo hội sơ khai, Kélsos thành Alexandria đã có kiến giải gián tiếp về chủ đề này. Trong Chân Ngôn (Λόγος Ἀληθής), ông liên kết cây thập tự với cây sự sống: "...[nhắc đến] cây sự sống, có thân thể nhờ "cây" mà sống lại; vì tôi tưởng rằng thầy của họ đã bị đóng đinh trên cây thập tự, và nghề mưu sinh của ông là thợ mộc...".[28] Phúc Âm Philip của phái Trí Huệ thì nói trực tiếp hơn: "Joseph, làm nghề thợ mộc, trồng một mảnh vườn để có cây gỗ làm nguyên liệu. Người đã đẽo thánh giá từ cái cây mình trồng. Con của người bị treo trên những gì người trồng. Con đó là Chúa Giê-su, còn cây trồng đó là thập tự giá."[24][26] Mối quan hệ giữa hai cây cũng được mô tả trong truyền thuyết dựa trên ngụy kinh (Cuộc đời Adam và Eva, Sách Jubilees, Phúc Âm Nicodemus), thập giá Chúa Giê-su làm từ ba cây gỗ mọc lên từ hạt giống mà Seth lấy được ngay trước khi cha mình là Adam qua đời. Mối quan hệ giữa cây thiên đường với cây thập tự của Chúa Giê-su cũng được nêu ra trong các bản văn Ngụy Hippôlytô vào thế kỷ 3.[7][26][29]

Cây sự sống - Bích họa của Taddeo Gaddi từ Vương cung thánh đường Santa CroceFirenze (1360)
Tiểu họa trong "Dialogus de laudibus sanctae crossis" (Đối thoại ngợi khen thánh giá; Regensburg, 1170-1180): Thánh giá mô tả như Cây sự sống nở hoa. Dòng chữ trong hình: "Giáo hội tặng cho nhân loại cây sự sống nở hoa thành thập giá."[5]

Thế kỷ 4, Ephrem xứ Syria so sánh Cây sự sống với chính Con Đức Chúa Trời "Và, nếu Hê-nóc, người có sự sống, không thể nào nhận được sự sống nếu không có Cây sự sống, (về sau) nếu không có Con hằng sống, trái Ngài ban sự sống cho muôn vật."[30] Ông gọi Cây sự sống là "Mặt trời thiên đường" khiến tất cả các cây khác đều phải cúi đầu.[5] Giáo phụ Ignatius thành Antioch so sánh thánh giá với cái cây có nhánh là các Kitô hữu đang đơm hoa kết trái. Thánh giá Arbor Vitae hay còn gọi là Arbor CrucisCrux Florida cũng tiêu biểu trong nghệ thuật Thiên Chúa giáo sơ khai.[21]

Thế kỷ 13, Thánh Bonaventura thuộc Dòng Anh Em Hèn Mọn đã viết một bài suy ngẫm mô tả câu chuyện về Chúa Giê-su dưới hình thức Cây sự sống. Câu chuyện có tính giáo huấn và phép ẩn dụ giúp cho tín hữu hiểu được ý nghĩa và ghi nhớ. Trong ngụ ngôn Bonaventura, cây mọc ra 12 cành với 48 lá và sinh 12 trái trên 3 tán (tương ứng với 3 khổ thơ). Mỗi là một câu ứng với một đặc tính hoặc sự kiện trong cuộc đời Đấng Christ. Bốn câu hợp thành một khổ. Phần mở đầu gồm ba khổ, tiếp nối bằng các cành riêng biệt. Khởi đầu là cành thấp nhất mô tả nguồn gốc và cuộc đời Đấng Christ, cành ở giữa nói về Sự Khổ Nạn, còn cành cao nhất nói về huyền nhiệm thờ phượng. "Cây sự sống" của Bonaventura được công nhận rộng rãi, được sử dụng để trích dẫn và phát triển nhiều lần. Nó trở nên một khuôn mẫu cho một loạt tác phẩm cũng như là nguồn cảm hứng trong hội họa về Cây sự sống thần bí, thậm chí được đưa vào âm nhạc và ca khúc. Hình thức Bonaventura được nhắc đến trong 175 tên gọi, thường gặp là "Lignum vitae", nhưng cũng có thể gọi là "Arbor crossis", "Tractatus de arbore crossis", "Arbor vitae", "Fasciculus myrrhae" hoặc "Contemplatio de passione Domini". Bản thảo lưu trữ tại Darmstadt có chứa hình ảnh đại diện Cây sự sống và chép một trong hai giai điệu còn sót lại. Giai điệu còn lại được chép trong Berlin codex. Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy hai bản thảo này do một vị thánh sáng tác. Có một manh mối giống như gợi ý được nhắc đến trong biên niên sử Bartholomew xứ Acqui dòng Đa Minh.[31]

Cột trụ cây cọ trung tâm vòm gian giữa trong Nhà thờ Thánh Giá ở Kraków theo trường phái Gothic[32]

Tác phẩm của Bonaventura là cảm hứng cho một loạt các trang trí nghệ thuật vào thời trung cổ.[33] Hình ảnh thánh giá được trang trí rộng rãi như Cây sự sống có cành lá và trái, còn được gọi là "thánh giá cành lá". Cây cọ hoặc dây nho thường được dùng làm mẫu.[21] Một số ví dụ còn lại đến ngày nay như thánh giá Nhà thờ Thánh Giacôbê ở Toruń (cuối thế kỷ 14), Sách Phúc Âm Reims (1285-1297), tranh ván gỗ của Pacino di Bonaguida thế kỷ 14 và bích họa của Taddeo Gaddi tại Vương cung thánh đường Santa CroceFirenze (khoảng năm 1360), bích họa tu viện Phan Sinh ở Pistoia (khoảng năm 1386) và tranh tường tu viện Augustinô ở Roudnice nad Labem (khoảng năm 1360).[22] Cây sự sống mọc lên từ thánh giá cũng được minh họa trong tranh khảm mái vòm Vương cung thánh đường Thánh ClementeRoma.[34] Chủ đề Cây sự sống cũng hiện diện trong các di tích Ba Lan trường phái Roman và Gothic. Trên nền Phiến Wiślica (khoảng năm 1175–1177) nằm ở bậc thềm của bàn thờ cũ trong hầm mộ của nhà thờ bị phá hủy từ thế kỷ 12 có hình ảnh cây thiên đường được hai con sư tử đứng gác.[35] Cây sự sống cũng được khắc họa dưới dạng cây cọ thành cột trụ trung tâm vòm gian giữa Nhà thờ Gothic Thánh giá ở Kraków.[32]

Điêu khắc Cây sự sống với chim trắng; mặt tiền Vương cung thánh đường Sagrada FamíliaBarcelona

Nhà huyền bí Công giáo Đức thế kỷ 19 Anna Katharina Emmerick có khải tượng về hình ảnh cây sự sống của thiên đường trong khu vườn rực rỡ. Theo lời bà, cây mọc giữa hòn đảo trên sông thiên đường: "Cây bao phủ toàn bộ đảo, rất rộng nhưng ngọn lại chĩa nhọn. Cành cây vươn thẳng ra, trên đó lại có những cành mới mọc ra giống như những cây nhỏ đang vươn lên. Lá mềm mại, trái màu vàng ẩn trong lá như nụ hồng. Cây giống như loài tuyết tùng. Ta không nhớ có nhìn thấy Adam hay Eva hay loài vật nào khác ở cây đó nhưng chắc chắn có những con chim trắng thánh khiết cao quý đang hót trên cành cây. Đó là cây sự sống."[36]

Trong suốt nhiều thế kỷ, chủ đề Cây sự sống được các tác giả Thiên Chúa giáo thường xuyên nói đến. Ví dụ, Gioan Kim Khẩu (thế kỷ 4), Augustinô thành Hippo (thế kỷ 4-5), Theodoret xứ Cyrus (thế kỷ thứ 5), Anselmô thành Canterbury (thế kỷ 11-12), Rupert xứ Deutz (thế kỷ 11-12), Pierre Lombard (thế kỷ 12), Tôma Aquinô (thế kỷ 13), Bonaventura (thế kỷ 13), Martin Luther (thế kỷ 15-16), Jean Calvin (thế kỷ 16),[5] Anna Emmerick (thế kỷ 19).[36] Giáo hoàng Lêô XIII trong thông điệp Mirae caritatis (1902) đã liên hệ "lòng nhân từ và tình yêu của Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, dành cho con người" với Cây sự sống.[37] Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận xét rằng Cây sự sống trong Sách Sáng Thế là biểu tượng cho sự sống vĩnh hằng cùng Thiên Chúa.[38]

Sử gia và học giả tôn giáo România Mircea Eliade coi việc gán ý nghĩa Cây sự sống vào thập tự là sự tiếp nối huyền thoại về Cây vũ trụ kết nối trời đất với nhau.[39] Cây sự sống với tư cách hình mẫu văn hóa tượng trưng cho sự tái sinh mãi mãi của tự nhiên và sự vượt qua số phận con người.[3] Đối với Kitô hữu, cây gỗ làm nên thánh giá trở nên đồng nhất với nơi mà cái chết là điểm khởi đầu cho sự sống.[3][39]

Nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Chủ đề Cây sự sống được sử dụng trong kiến trúc tôn giáo, ví dụ như hoa văn trong một số nhà thờ Gothic (Nhà thờ Chartres, Nhà thờ Milan).[40] Hình tượng Cây sự sống được điêu khắc dưới dạng cây bách trên mặt tiền Vương cung thánh đường Sagrada FamíliaBarcelona, trên cành cây khắc hình chim bồ câu trắng lớn.[41] Bức tranh "Cây sự sống" năm 1909 là một họa phẩm tiêu biểu của Gustav Klimt và được vẽ lại nhiều nhất.[42]

Trong nghệ thuật dân gian Ba Lan cũng khá phổ biến mô típ Cây sự sống với hai con chim. Theo Tiến sĩ Halina Galera từ Khoa Thực vật Môi trường Đại học Warszawa, chủ đề này có lẽ liên hệ tới hình ảnh hoa huệ truyền thống - hình cắt Kurpie trên trục thẳng đứng lấy hình dạng một cái cây cách điệu.[3]

Năm 2005, Đài tưởng niệm được khánh thành ở Birmingham để tưởng nhớ 2.241 người dân thành phố thiệt mạng trong 77 vụ đánh bom từ ngày 8 tháng 8 năm 1940 đến năm 1943. Tác phẩm điêu khắc của Lorenzo Quinn thể hiện Cây sự sống trong hình ảnh bàn tay cách điệu dang rộng.[43]

Năm 2011, bộ phim "The Tree of Life" (Cây sự sống) của Hoa Kỳ đặt ra câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống. Tại Giải Oscar lần thứ 84, phim được đề cử ở các hạng mục: Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Hình ảnh xuất sắc nhất,[44] còn tại Liên hoan phim Cannes năm 2011 phim được trao giải Cành cọ Vàng cho Hình ảnh đẹp nhất.[45]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Singer 1902, tr. 238-239.
  2. ^ a b c d e f Żebrowski, Rafał. “Drzewo Życia” [Cây sự sống]. Polski słownik judaistyczny (bằng tiếng Ba Lan). Żydowski Instytut Historyczny. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f Galera 2007, tr. 117-129.
  4. ^ Kirk 1974, tr. 332.
  5. ^ a b c d Lechler 1937, tr. 369–419.
  6. ^ Świderkówna 2012, tr. 47.
  7. ^ a b Sprutta 2015, tr. 329–338.
  8. ^ a b Parpola 1993, tr. 161–208.
  9. ^ a b c d Ameisenowa 1938, tr. 326-345.
  10. ^ Semi 2014, tr. 6.
  11. ^ Sieramska, Magdalena. “ace(j) chajim”. Polski słownik judaistyczny (bằng tiếng Ba Lan). Żydowski Instytut Historyczny. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  12. ^ Schreckenberg & Schubert 1992, tr. 166-167.
  13. ^ Lambert, Theresa, “The Significance of the Dura-Europos Synagogue” [Ý nghĩa của nhà hội Dura-Europos] (PDF), Concordia Undergraduate Journal of Art History (bằng tiếng Anh), III, ISSN 2236-0719, lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2021, truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021
  14. ^ Karr 1985, tr. 22-31.
  15. ^ Encyclopædia Britannica. “Ḥayyim ben Joseph Vital” (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  16. ^ Kos, Bogdan. “Kordowero Mojżesz” [Moses Cordovero]. Polski słownik judaistyczny (bằng tiếng Ba Lan). Żydowski Instytut Historyczny. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  17. ^ Sieramska, Magdalena. “Zając” [Thỏ rừng]. Polski słownik judaistyczny (bằng tiếng Ba Lan). Żydowski Instytut Historyczny. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  18. ^ Sieramska, Magdalena. “Jednorożec” [Kỳ lân]. Polski słownik judaistyczny (bằng tiếng Ba Lan). Żydowski Instytut Historyczny. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021.
  19. ^ Kinh Qur'an, 20:120.
  20. ^ Reat 1975, tr. 8.
  21. ^ a b c Jasiewicz 2012, tr. 224.
  22. ^ a b Waszak 2013, tr. 9-28.
  23. ^ Williams 1930, tr. 182.
  24. ^ a b Kozłowski 2013, tr. 183-189.
  25. ^ “ξύλον”. Englishman’s Concordance (bằng tiếng Anh). Bible Hub. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2021.
  26. ^ a b c d Myszor 1997, tr. 98.
  27. ^ Smith 1952, tr. 69.
  28. ^ Roberts & Donaldson 1872, tr. 373.
  29. ^ Roberts & Donaldson 1869, tr. 91.
  30. ^ Buck 1999, tr. 101.
  31. ^ Bonaventura 1978, tr. 117-176.
  32. ^ a b Parafia Świętego Krzyża. “Parafia Świętego Krzyża: Architektura” [Giáo xứ Thánh Giá: Kiến trúc] (bằng tiếng Ba Lan). Parafia Rzymskokatolicka Świętego Krzyża w Krakowie. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021.
  33. ^ Bonaventura 1978, tr. 12.
  34. ^ Rodov 2013, tr. 110.
  35. ^ Wartołowska 1960, tr. 82-86.
  36. ^ a b [Oprac.] Clemens Brentano (1778-1842). [Tł.] Władysław Rakowski, Drzewo Żywota i Drzewo Wiadomości [Cây sự sống và Cây Phúc Âm] (bằng tiếng Ba Lan), Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2015, truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021
  37. ^ Leon XIII 1902, tr. 3.
  38. ^ Jan Paweł II 2012, tr. 194.
  39. ^ a b Eliade 2010, tr. 303-304.
  40. ^ Ramzy 2015, tr. 151.
  41. ^ Herreros i Agüí 2011, tr. 526.
  42. ^ “Tree of Life” [Cây sự sống] (bằng tiếng Anh). www.gustavklimt.net. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  43. ^ a b Ryan, Ciarán (ngày 17 tháng 10 năm 2005). “The Tree of Life unveiled” [Khai trương Cây sự sống] (bằng tiếng Anh). BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2017.
  44. ^ “The 84th Academy Awards (2012) Nominees and Winners” [Đề cử và chiến thắng tại giải thưởng Viện Hàn lâm lần thứ 84 (2012)] (bằng tiếng Anh). Academy of Motion Picture Arts and Sciences. ngày 26 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  45. ^ “Malick's drama The Tree of Life triumphs in Cannes” [Bộ phim Tree of Life của Malick dành chiến thắng tại Cannes], BBC (bằng tiếng Anh), ngày 11 tháng 12 năm 2011, Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2017, truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2017
  46. ^ Soglio, Elisabetta (ngày 4 tháng 3 năm 2015), “Expo, ora l'Albero della Vita ha messo anche le «foglie»” [Expo, giờ đây Cây sự sống cũng ra "lá"], Corriere della Sera (bằng tiếng Ý)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ameisenowa, Zofja (1938), “The Tree of Life in Jewish Iconography” [Cây sự sống trong Biểu tượng Do Thái giáo], Journal of the Warburg Institute (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 4), 2, ISSN 0075-4390
  • Bonaventura (1978), The soul's journey into God - The tree of life - The life of St. Francis [Hành trình linh hồn gặp Thượng Đế - Cây sự sống - Cuộc đời Thánh Phan Sinh] (bằng tiếng Anh), Ewert Cousins biên dịch, New York - Ramsey - Toronto: Paulist Press
  • Buck, Christopher G. (1999), Bản sao đã lưu trữ [Thiên đàng và Niệm giới: Các biểu tượng chính trong Thiên Chúa giáo Ba Tư và Đức tin Baha’i] (PDF) (bằng tiếng Anh), New York: State University of New York Press, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2021, truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Eliade, Mircea (2010), Traktat o historii religii [Chuyên luận lịch sử tôn giáo] (bằng tiếng Ba Lan), Warszawa: Aletheia, ISBN 978-83-61182-30-6
  • Galera, Halina (2007), “Morfologia a symbolika drzew” [Hình thái học và biểu tượng cây], Nauka (bằng tiếng Ba Lan), 2
  • Jan Paweł II (2012), Komentarz do ksiąg Starego Testamentu [Bình luận về các sách Cựu Ước] (bằng tiếng Ba Lan), Kraków: Wydawnictwo M, ISBN 9788375953992
  • Jasiewicz, Arkadiusz (2012), “Bản sao đã lưu trữ” [Thuyết biểu tượng thánh giá theo Ignatius thành Antioch và Polycarp xứ Smyrna] (PDF), Seminare (bằng tiếng Ba Lan), 31, ISSN 2450-1328, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2016, truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Herreros i Agüí, Sebastià (2011), “Bản sao đã lưu trữ” [Chủ nghĩa hiện đại và kỳ học Catalan] (PDF), Proceedings of the 24th Internati onal Congress of Vexillology (bằng tiếng Anh), North American Vexillological Association, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2021, truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Karr, Don (1985), “Notes on the Study of Later Kabbalah in English: The Safed Period and Lurianic Kabbalah” [Ghi chú nghiên cứu Hậu Kabbalah bằng tiếng Anh: Giai đoạn Safed và Lurianic Kabbalah], Collected Articles on the Kabbalah (bằng tiếng Anh), 2
  • Kirk, Geoffrey Stephen (1974), The Nature of Greek Myths [Bản chất thần thoại Hy Lạp] (bằng tiếng Anh), Harmondsworth, London: Penguin, ISBN 0140217835
  • Kozłowski, Jan M. (2013), “Cieśla i Krzyż” [Thợ mộc và thập giá], Vox Patrum (bằng tiếng Ba Lan) (ấn bản thứ 60), 33
  • Lechler, George (1937), “The Tree of Life in Indo-European and Islamic Cultures” [Cây sự sống trong văn hóa Ấn-Âu và Hồi giáo] (PDF), Ars Islamica (bằng tiếng Anh), Freer Gallery of Art, The Smithsonian Institution and Department of the History of Art, University of Michigan, 4
  • Leon XIII (1902), Mirae Caritatis (PDF) (bằng tiếng Anh), Vatican
  • Myszor, Wincenty (1997), “Bản sao đã lưu trữ” [Biểu tượng thập giá theo Thánh Irênê], Śląskie Studia Historyczno-Teologiczne (bằng tiếng Ba Lan), Uniwersytet Śląski w Katowicach, 30, ISSN 0137-3447, Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2021, truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Parpola, Simo (1993), “The Assyrian Tree of Life: Tracing the Origins of Jewish Monotheism and Greek Philosphy” [Cây sự sống Assyri: Truy tìm nguồn gốc thuyết độc thần Do Thái và triết học Hy Lạp], Journal of Near Eastern Studies (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 3), The University of Chicago Press, 52, ISSN 0022-2968
  • Ramzy, Nelly Shafik (2015), “Bản sao đã lưu trữ” [Ngôn ngữ kép của hình học trong kiến trúc Gothic: Thông điệp tượng trưng của hình học Euclide với tương tác trực quan của hình học Fractal] (PDF), Peregrinations: Journal of Medieval Art and Architecture (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 2), V, ISSN 1554-8678, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2017, truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Reat, Noble Ross (1975), “Bản sao đã lưu trữ” [Biểu tượng cây trong Hồi giáo] (PDF), Studies in Comparative Religion (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 3), World Wisdom, Inc., 9, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2020, truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Roberts, Alexander; Donaldson, James biên tập (1869), S. D. F. Salmond biên dịch, “The Writings of Hippolytus, Bishop of Portus, Vol. II - Fragments of Writings of the third century” [Tác phẩm Hippôlytô giám mục Portus, cuốn II - Mảnh tư liệu thế kỷ 3], Ante-Nicene Christian Library: Translations of the Writings of the Fathers (bằng tiếng Anh), Edinburgh: T. & T. Clark, 9
  • Roberts, Alexander; Donaldson, James biên tập (1872), Frederick Crombie biên dịch, “Origen Contra Celsum” [Origenes chống Kélsos], Ante-Nicene Christian Library: Translations of the Writings of the Fathers (bằng tiếng Anh), Edinburgh: T. & T. Clark, 23
  • Rodov, Ilia (2013), The Torah Ark in Renaissance Poland: A Jewish Revival of Classical Antiquity [Hòm Torah ở Ba Lan thời Phục hưng: Sự hồi sinh Do Thái cổ điển], Jewish and Christian Perspectives Series (bằng tiếng Anh), Lejda: BRILL, ISBN 9789004244405
  • Schreckenberg, Heinz; Schubert, Kurt (1992), Jewish Historiography and Iconography in Early and Medieval Christianity [Thuật chép sử và biểu tượng Do Thái vào thời Cơ Đốc giáo sơ khai và trung cổ] (bằng tiếng Anh), Assen: Uitgeverij Van Gorcum, ISBN 9789023226536
  • Semi, Emanuela Trevisan (tháng 12 năm 2014), “Bản sao đã lưu trữ” [Cuộn kinh Torah như một ngôi vị và như nguồn sáng tạo thiêng liêng trong truyện ngụ ngôn của Agnon] (PDF), Annali di Ca’ Foscari (bằng tiếng Anh), 50, doi:10.14277/2385-3042/1, ISSN 2385-3042, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2017, truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Singer, Isidore biên tập (1902), “Talmuz-Zweifel”, The Jewish Encyclopedia (bằng tiếng Anh), New York and London: Funk and Wagnalls Company, XII
  • Smith, Joseph P. (1952), “St. Irenaeus: Proof of the Apostolic Preaching” [Thánh Irênê: Bằng chứng rao giảng sứ đồ], Ancient Christian Writers (bằng tiếng Anh), London: Longmans, Green And Co.
  • Sprutta, Justyna (2015), “Krzyż mistyczny jako Drzewo Życia w sztuce średniowiecza” [Thập giá thần bí tựa như Cây sự sống trong nghệ thuật Trung cổ], Studia Gnesnensia (bằng tiếng Ba Lan), XXIX, ISSN 0239-9407
  • Świderkówna, Anna (2012), Bramy do Biblii [Cánh cổng mở vào Kinh Thánh] (bằng tiếng Ba Lan), Kraków: Wydawnictwo M, ISBN 9788375954388
  • Szczepanowicz, Barbara (2004), Atlas roślin biblijnych. Pochodzenie, miejsce w Biblii i symbolika, Kraków: Wydawnictwo WAM, ISBN 83-7318-097-4
  • Wartołowska, Z. (1960), “Wyniki badań archeologicznych w Wiślicy” [Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở Wiślica], Ochrona Zabytków (bằng tiếng Ba Lan) , 13, ISSN 0029-8247
  • Waszak, Przemysław (2013), “Bản sao đã lưu trữ” [Thánh giá hình Cây Sự sống từ Nhà thờ Đa Minh thánh Nicholas ở Toruń - diện mạo mới] (PDF), Sztuka i Kultura (bằng tiếng Ba Lan), Katedra Historii Sztuki i Kultury Uniwersytetu Mikołaja Kopernika w Toruniu, 1, doi:10.12775/SZiK.2013.001, ISSN 2300-5335, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2016, truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021 Đã định rõ hơn một tham số trong |tựa đề=|title= (trợ giúp)
  • Williams, A. Lukyn (1930), Justin Martyr: The Dialogue with Trypho [Justinô Tử Đạo: Đối thoại với Trypho] (bằng tiếng Anh), London: Society for Promoting Christian Knowledge
  • Thiên Kinh Qur'an và bản dịch Nội dung ý nghĩa bằng Việt ngữ (PDF), Trung Tâm Ấn Loát Thiên Kinh Qur’an của Quốc Vương Fahad

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Anime Review] Zankyou no Terror – Nhớ đến họ, những con người đã ngã xuống
[Anime Review] Zankyou no Terror – Nhớ đến họ, những con người đã ngã xuống
Zankyou no Terror là một phim nặng về tính ẩn dụ hình ảnh lẫn ý nghĩa. Những câu đố xoay vần nối tiếp nhau, những hành động khủng bố vô hại tưởng chừng như không mang ý nghĩa, những cuộc rượt đuổi giữa hai bên mà ta chẳng biết đâu chính đâu tà
[Review sách] Thế giới rộng lớn, lòng người chật hẹp - Cuốn tản văn xoa dịu tâm hồn
[Review sách] Thế giới rộng lớn, lòng người chật hẹp - Cuốn tản văn xoa dịu tâm hồn
Cho dẫu trái tim nhỏ bé, khoảng trống chẳng còn lại bao nhiêu, vẫn mong bạn sẽ luôn dành một chỗ cho chính mình, để có thể xoa dịu bản thân
Giới thiệu AG Priscilla - Anti AoE and Penetration tanker
Giới thiệu AG Priscilla - Anti AoE and Penetration tanker
Priscilla là một tanker lợi hại khi đối mặt với những kẻ địch sở hữu khả năng AOE và AOE xuyên giáp như Mami, Madoka, Miki
Sáu việc không nên làm sau khi ăn cơm
Sáu việc không nên làm sau khi ăn cơm
Tin rằng có rất nhiều người sau bữa ăn sẽ ăn thêm hoặc uống thêm thứ gì đó, hơn nữa việc này đã trở thành thói quen