Саха | |
---|---|
Tổng dân số | |
500.000 | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Nga | 478.085 (2010)[1] |
Hoa Kỳ | 17.454 (2018 census)[2] |
Trung Quốc | 2.900[3] |
Canada | 4.257 (2017)[4] |
Kazakhstan | 415 (2009)[5][6] |
Ukraina | 304 (2001)[7] |
Ngôn ngữ | |
Tiếng Yakut, Nga, các tiếng quốc gia | |
Tôn giáo | |
Shaman giáo, Chính thống giáo Đông phương | |
Sắc tộc có liên quan | |
Dolgan, Tuva, Khakas, Altay, Mongol |
Người Yakut hay người Sakha (tiếng Yakut: саха, sakha, số nhiều: сахалар, sakhalar), là một dân tộc thuộc nhóm sắc tộc Turk, cư trú chủ yếu ở vùng Yakutia (hay Cộng hòa Sakha) thuộc Liên bang Nga, và một số ít ở các vùng Amur, Magadan, Sakhalin, và các Quận tự trị Taymyr và Evenk.
Theo kết quả của cuộc Tổng điều tra dân số toàn Nga năm 2010, có khoảng 478,1 nghìn người Yakut sống ở Nga, chủ yếu ở Yakutia (466,5 nghìn người), cũng như ở các vùng Irkutsk, Magadan, vùng Khabarovsk và Krasnoyarsk. Người Yakut là những người đông nhất (49,9% dân số) ở Yakutia và lớn nhất trong số các dân tộc bản địa của Siberia trong lãnh thổ Liên bang Nga [8].
Theo Joshua Project, người Yakut có tổng dân số 491 ngàn, trong đó ở Nga có 488 ngàn [3], ở Trung Quốc có 2.900 người[9], và không nhắc đến có người Yakut ở Hoa Kỳ và Canada.
Người Yakut nói tiếng Yakut, một ngôn ngữ thuộc chi nhánh Siberia của Ngữ hệ Turk. Người Yakut tự gọi mình là sakha hoặc urangai sakha trong một số văn tự cổ. Tên gọi "Yakut" theo tiếng Nga (Якуты) được lấy từ tiếng Evenk là yokō.[10]
Theo giả thuyết phổ biến hiện nay, tổ tiên của người Yakut là người Kurykan [11] di cư từ vùng Krasnoyarsk-Minusinsk trong lưu vực sông Yenisey đến hồ Baikal, và có một chút hòa huyết Mông Cổ nhất định trước khi di cư vào thế kỷ thứ 7[12][13][14].
Người Yakuts ban đầu sống xung quanh vùng Olkhon và vùng Hồ Baikal. Bắt đầu từ thế kỷ 13, họ di cư đến lưu vực sông Lena, sông Aldan và sông Vilyuy dưới áp lực của quân Mông Cổ đang nổi lên. Người Yakut phía bắc chủ yếu là thợ săn, ngư dân và chăn nuôi tuần lộc, trong khi người Yakut miền nam chăn nuôi gia súc và ngựa.[15][16]
Từ những năm 1620, Sa hoàng Muscovy mở rộng lãnh thổ đến các vùng này, áp thuế lông thú, và trấn áp một số cuộc nổi dậy của người Yakut từ năm 1634 đến 1642. Sự tàn bạo của Nga hoàng trong việc thu thuế da thú (yasak) châm ngòi một cuộc nổi dậy của người Yakut và cả những bộ lạc nói tiếng Tungus dọc theo sông Lena vào năm 1642. Lãnh chúa (voivod) Peter Golovin thống lĩnh lực lượng Nga hoàng, đã đáp trả bằng cuộc khủng bố: các khu định cư bản địa bị đốt cháy và hàng trăm người đã bị giết. Riêng dân số Yakut được ước tính đã giảm 70% trong khoảng thời gian từ năm 1642 đến năm 1682, chủ yếu là do bệnh đậu mùa và các bệnh truyền nhiễm khác.[17][18]
Sang thế kỷ 18 người Nga đã giảm bớt áp lực, trao cho các thủ lĩnh Yakut một số đặc quyền, tự do cho tất cả các môi trường sống, cho họ tất cả đất đai của họ, truyền bá Chính thống giáo phương Đông và giáo dục người Yakut về nông nghiệp. Việc phát hiện ra vàng và sau đó là việc xây dựng Đường sắt xuyên Sibir, đã đưa số lượng người Nga đến khu vực ngày càng tăng. Vào những năm 1820 hầu như tất cả những người Yakut tuyên bố đã cải sang nhà thờ Chính thống giáo Nga, đồng thời vẫn giữ một số tập tục của thầy cúng như tổ tiên.[19]
Năm 1922 chính phủ Liên Xô đặt tên khu vực này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tự trị Yakut. Cuộc xung đột cuối cùng trong Nội chiến Nga, được gọi là Cuộc nổi dậy Yakut, do sĩ quan Nga Bạch vệ Cornet Mikhail Korobeinikov lãnh đạo, và là người cuối cùng chống lại Hồng quân. Sau đó là các chính sách của Joseph Stalin, dẫn đến nạn đói và suy dinh dưỡng, đã khiến tổng dân số Yakut giảm từ 240 ngàn người năm 1926 xuống còn 236 ngàn người năm 1959. Đến năm 1972 dân số bắt đầu phục hồi.[20]
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) [liên kết hỏng]