Cuộc sống tươi đẹp

Cuộc sống tươi đẹp
Đạo diễnRoberto Benigni
Tác giảRoberto Benigni
Vincenzo Cerami
Sản xuấtGianluigi Braschi
Elda Ferri
Diễn viênRoberto Benigni
Nicoletta Braschi
Giorgio Cantarini
Giustino Durano
Horst Buchholz
Quay phimTonino Delli Colli
Dựng phimSimona Paggi
Âm nhạcNicola Piovani
Hãng sản xuất
Phát hànhMiramax Films
Công chiếu
  • 20 tháng 12 năm 1997 (1997-12-20)
Thời lượng
116 phút[1]
Quốc giaÝ
Ngôn ngữTiếng Ý
Kinh phí$20 triệu[2]
Doanh thu$230.1 triệu[3]

Cuộc sống tươi đẹp (tiếng Ý: La vita è bella, tiếng Anh: Life Is Beautiful), phát âm tiếng Ý: [la ˈviːta ˈɛ bˈbɛlla]) là một bộ phim hài kịch của Ý năm 1997 do Roberto Benigni đạo diễn và đóng vai chính, đồng sáng tác bộ phim với Vincenzo Cerami. Benigni vào vai Guido Orefice, một chủ hiệu sách Người Ý gốc Do Thái, anh đã sử dụng trí tưởng tượng phong phú của mình để bảo vệ con trai mình khỏi nỗi kinh hoàng khi bị giam giữ trong một trại tập trung của Đức Quốc xã. Bộ phim được lấy cảm hứng một phần từ cuốn sách Cuối cùng, tôi đã đánh bại Hitler (In the End, I Beat Hitler) của Rbino Romeo Salmonì và cha của Benigni, bản thân ông đã trải qua hai năm trong trại tập trung Bergen-Belsen trong Chiến tranh Thế giới II.

Bộ phim là một thành công vượt trội về mặt thương mại và phê bình. Phim đã nhận được sự hoan nghênh rộng rãi, với các nhà phê bình khen ngợi câu chuyện, màn trình diễn, chỉ đạo và sự kết hợp giữa chính kịch và hài kịch, bất chấp một số lời chỉ trích về việc sử dụng chủ đề này cho mục đích hài hước. Phim đã thu về hơn 230 triệu đô la trên toàn thế giới, bao gồm 57,6 triệu đô la ở Hoa Kỳ, là phim nói tiếng nước ngoài có doanh thu cao thứ hai ở Hoa Kỳ (sau Ngọa hổ tàng long)[4] và là một trong phim không nói tiếng Anh có doanh thu cao nhất mọi thời đại.[5] National Board of Review đã đưa phim vào top 5 phim nước ngoài hay nhất năm 1998.[6]

Bộ phim đã giành được giải Grand Prix tại Liên hoan phim Cannes 1998, chín giải David di Donatello Awards (bao gồm Phim hay nhất), năm giải Nastro d'Argento ở Ý, hai Giải phim châu Âu, và ba Giải Oscar, bao gồm Phim nói tiếng nước ngoài hay nhấtNam diễn viên chính xuất sắc nhất cho Benigni, tác phẩm đầu tiên dành cho nam diễn viên không nói tiếng Anh.[7]

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1939, tại Ý trong thời kỳ phát xít, Guido Orefice là một thanh niên người Ý gốc Do Thái đến làm việc tại thành phố Arezzo, ở Tuscany, nơi chú Eliseo của anh đang làm việc trong nhà hàng của một khách sạn. Guido hài hước, sắc sảo và đem lòng yêu một cô gái người ngoại quốc tên là Dora. Sau đó, anh gặp lại cô ở thành phố nơi cô là giáo viên và chuẩn bị đính hôn với Rodolfo, một quan chức chính quyền địa phương giàu có nhưng kiêu ngạo, người mà Guido thường xuyên đụng độ. Guido dựng lên nhiều tình tiết "tình cờ" để thể hiện sự quan tâm của mình dành cho Dora.

Cuối cùng, Dora cũng nhận ra tình cảm của anh. Trong tiệc đính hôn, Guido cưỡi trên một con ngựa và đánh cắp Dora khỏi tay vị hôn phu. Sau đó, họ kết hôn và có một con trai, Giosuè, cùng nhau điều hành một hiệu sách.

Năm 1944, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Bắc Ý bị Đức Quốc xã chiếm đóng, Guido, chú Eliseo và Giosuè bị bắt vào ngay ngày sinh nhật của Giosuè. Họ và nhiều người Do Thái khác bị buộc lên một chuyến tàu đến trại tập trung. Sau đó, Dora cũng tình nguyện lên tàu để được gần gia đình...

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Phim được quay ở Arezzo, Tuscany, kể cả Badia delle Sante Flora e Lucilla.
Roberto Benigni cùng vợ Nicoletta Braschi nhận về những đánh giá tích cực cho bộ phim nói chung và diễn xuất của anh nói riêng.

Phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc sống tươi đẹp gặt hái nhiều thành công về mặt thương mại, kiếm được 48,7 triệu đô la ở Ý.[8] Phim cũng là phim Ý có doanh thu cao nhất ở quê hương cho đến năm 2011, khi đứng sau What a Beautiful Day của Checco Zalone vượt qua.[9]

Bộ phim cũng thành công ở phần còn lại của thế giới, thu về 57,6 triệu đô la tại Hoa Kỳ và Canada và 123,8 triệu đô la ở các vùng lãnh thổ khác, với tổng doanh thu toàn cầu là 230,1 triệu đô la.[3] Phim đã vượt qua bộ phim Ý Il Postino: The Postman để trở thành bộ phim nói tiếng nước ngoài có doanh thu cao nhất tại Hoa Kỳ cho đến khi bị Ngọa hổ tàng long (2000) vượt qua.[10][11]

Đón nhận quan trọng

[sửa | sửa mã nguồn]

Báo chí Ý ca ngợi bộ phim, với Benigni được coi như một "anh hùng dân tộc".[12] Giáo hoàng John Paul II, trong buổi chiếu riêng với Benigni, đã xếp phim vào năm bộ phim yêu thích nhất của ông.[12] Phim có xếp hạng phê duyệt 80% "Độ tươi" trên trang web tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, dựa trên 92 bài đánh giá với điểm trung bình là 7,50/10. Sự đồng thuận của trang web có nội dung: "Sự quyến rũ nghiêm túc của Benigni, khi không vượt qua giới hạn của phim để bật lại một cách không cần thiết, mang đến khả năng hy vọng khi đối mặt với nỗi kinh hoàng không nguôi".[13]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc sống tươi đẹp trình chiếu tại Liên hoan phim Cannes 1998, và tiếp tục giành giải Grand Prix.[14] Khi nhận giải, Benigni đã hôn chân chủ tịch ban giám khảo Martin Scorsese.[15]

Tại Giải Oscar lần thứ 71, Benigni đã giành giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, với bộ phim đã giành thêm hai giải thưởng cho Âm nhạc gốc hay nhấtPhim nói tiếng nước ngoài hay nhất.[16] Benigni nhảy lên ghế khi tiến lên sân khấu để nhận giải thưởng đầu tiên trong đời, và khi nhận giải thưởng thứ hai, ông nói: "Đây là một sai lầm khủng khiếp vì tôi đã sử dụng hết vốn tiếng Anh của tôi!"[17]

Giải thưởng Ngày trao giải Giải Người nhận Kết quả Tham khảo
Giải Oscar 21 tháng 3 năm 1999 Phim hay nhất Elda FerriGianluigi Braschi Đề cử [16]
Đạo diễn xuất sắc nhất Roberto Benigni Đề cử
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
Kịch bản gốc hay nhất Roberto Benigni và Vincenzo Cerami Đề cử
Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất Nước Ý Đoạt giải
Dựng phim hay nhất Simona Paggi Đề cử
Nhạc hay nhất Nicola Piovani Đoạt giải
Giải thưởng Viện phim Úc 1999 Phim nước ngoài hay nhất Roberto Benigni, Elda Ferri và Gianluigi Braschi Đoạt giải [18]
Giải BAFTA 11 tháng 4 năm 1999 Phim quốc tế hay nhất Roberto Benigni, Elda Ferri và Gianluigi Braschi Đề cử [19]
Kịch bản gốc xuất sắc nhất Roberto Benigni và Vincenzo Cerami Đề cử
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Roberto Benigni Đoạt giải
Liên hoan phim Cannes 13–24 tháng 5 năm 1998 Giải thưởng lớn Đoạt giải [14]
Giải César 6 tháng 3 năm 1999 Phim nước ngoài hay nhất Đoạt giải [20]
Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh 19 tháng 1 năm 1999 Phim hay nhất Đề cử [21]
Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất Roberto Benigni Đoạt giải
Giải David di Donatello 1998 Phim hay nhất Đoạt giải [22]
Đạo diễn hay nhất Đoạt giải
Nhà sản xuất xuất sắc nhất Elda Ferri và Gianluigi Braschi Đoạt giải
Kịch bản hay nhất Roberto Benigni và Vincenzo Cerami Đoạt giải
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Roberto Benigni Đoạt giải
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất Sergio Bustric Đề cử
Quay phim xuất sắc nhất Tonino Delli Colli Đoạt giải
Biên tập xuất sắc nhất Simona Paggi Đề cử
Âm thanh hay nhất Tullio Morganti Đề cử
Bản nhạc hay nhất Nicola Piovani Đề cử
Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất Danilo Donati Đoạt giải
Trang phục đẹp nhất Đoạt giải
Scholars Jury David Roberto Benigni Đoạt giải
Giải thưởng Điện ảnh châu Âu 7 tháng 12 năm 1998 Phim hay nhất Elda Ferri và Gianluigi Braschi Đoạt giải [23]
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất Roberto Benigni Đoạt giải
Liên hoan phim Jerusalem 1998 Trải nghiệm Do Thái tốt nhất Đoạt giải [24]
Giải thưởng Hiệp hội Diễn viên Màn ảnh 7 tháng 3 năm 1999 Màn trình diễn xuất sắc của dàn diễn viên Diễn viên Đề cử [25]
Diễn xuất xuất sắc của Nam diễn viên trong vai chính trong phim điện ảnh Roberto Benigni Đoạt giải
Liên hoan phim quốc tế Toronto 10–19 tháng 9 năm 1998 Giải thưởng do khán giả bình chọn Đoạt giải [26]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ LA VITA E BELLA (LIFE IS BEAUTIFUL) (12A)”. Buena Vista International. British Board of Film Classification. ngày 26 tháng 11 năm 1998. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2013.
  2. ^ “Box Office Information for Life is Beautiful. The Wrap. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  3. ^ a b “Life is Beautiful”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  4. ^ “Top grossing foreign films in the US”. RTT News.
  5. ^ John, Adriana (21 tháng 9 năm 2016). “Top 10 Highest Grossing Non-English Movies of All Time”. Wonderslist. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2018.
  6. ^ “1998 Archives”. National Board of Review.
  7. ^ “Roberto Benigni: Dante is Beautiful”. Mary Manning. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2023.
  8. ^ Perren 2012, tr. 274.
  9. ^ “Checco Zalone supera Benigni”. tgcom24.mediaset.it. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  10. ^ “Foreign Language”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  11. ^ Carver, Benedict; Cox, Dan (21 tháng 3 năm 1999). 'Life' shows there's life for foreign pix”. Variety. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2022.
  12. ^ a b Stone, Alan A. (1 tháng 4 năm 1999). “Escape from Auschwitz”. Boston Review. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  13. ^ “Life is Beautiful”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2022.
  14. ^ a b “Festival de Cannes: Life is Beautiful”. festival-cannes.com. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2009.
  15. ^ Turan, Kenneth (23 tháng 10 năm 1998). “The Improbable Success of 'Life Is Beautiful'. The Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2016.
  16. ^ a b “The 71st Academy Awards (1999) Nominees and Winners”. oscars.org. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015.
  17. ^ Higgins, Bill (24 tháng 2 năm 2012). “How 'Life Is Beautiful's' Roberto Benigni Stole the Oscars Show in 1999”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  18. ^ “1999 Winners & Nominees”. AACTA.org. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  19. ^ Lister, David (11 tháng 4 năm 1999). “Good night at Baftas for anyone called Elizabeth”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  20. ^ “César du Meilleur film étranger – César”. AlloCiné. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  21. ^ Clinton, Paul (26 tháng 1 năm 1999). “Broadcast Film critics name 'Saving Private Ryan' best film”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  22. ^ “La vita è bella – Premi vinti: 9”. David di Donatello. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  23. ^ “European Film Awards Winners 1998”. European Film Academy. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  24. ^ Logan, Brian (29 tháng 1 năm 1999). “Does this man really think the Holocaust was a big joke?”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  25. ^ Madigan, Nick (7 tháng 3 năm 1999). “SAG tells Benigni 'Life' is beautiful”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016.
  26. ^ Piper 2003, tr. 11.

Tham khảo thư loại

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Kishou Arima: White Reaper trong Tokyo Ghoul
Kishou Arima: White Reaper trong Tokyo Ghoul
Kishou Arima (有馬 貴将, Arima Kishō) là một Điều tra viên Ngạ quỷ Cấp đặc biệt nổi tiếng với biệt danh Thần chết của CCG (CCGの死神, Shīshījī no Shinigami)
[Review] Socrates thân yêu – Cửu Nguyệt Hy
[Review] Socrates thân yêu – Cửu Nguyệt Hy
Thực sự sau khi đọc xong truyện này, mình chỉ muốn nam chính chết đi. Nếu ảnh chết đi, cái kết sẽ đẹp hơn biết mấy
Gải mã các khái niệm cơ bản xoay quanh Jujutsu Kaisen - Chú thuật hồi chiến
Gải mã các khái niệm cơ bản xoay quanh Jujutsu Kaisen - Chú thuật hồi chiến
Điểm qua và giải mã các khái niệm về giới thuật sư một cách đơn giản nhất để mọi người không còn cảm thấy gượng gạo khi tiếp cận bộ truyện
Giới thiệu VinFast VF e34 (VinFast e34)
Giới thiệu VinFast VF e34 (VinFast e34)
VinFast VF e34 có giá bán 690 triệu đồng, thuộc phân khúc xe điện hạng C. Tại Việt Nam chưa có mẫu xe điện nào thuộc phân khúc này, cũng như chưa có mẫu xe điện phổ thông nào.