Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện.tháng 2/2022) ( |
Dũng Hà | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Phạm Điệng |
Ngày sinh | 15 tháng 8, 1929 |
Nơi sinh | Thái Bình |
Mất | |
Ngày mất | 2011 |
Nơi mất | Hà Nội |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | nhà văn, quân nhân |
Sự nghiệp nghệ thuật | |
Bút danh | Thái Linh |
Năm hoạt động | 1963 – 2006 |
Thành viên của | |
Binh nghiệp | |
Thuộc | |
Quân chủng | Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1936 - 1993 |
Cấp bậc | |
Đơn vị | Binh chủng Đặc công |
Tham chiến |
|
Tặng thưởng | Huân chương Quân công hạng Nhất Huân chương Chiến thắng hạng Nhì Huân chương Kháng chiến hạng Nhất Huân chương Chiến công hạng Nhì Huân chương Chiến công hạng Ba Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhì Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba Huy chương Quân kỳ quyết thắng |
Dũng Hà (1929–2011), (bút danh: Thái Linh) là một nhà văn, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Binh chủng Đặc công, nguyên Trưởng ban Ký sự Lịch sử quân sự thuộc Tổng cục Chính trị QĐNDVN, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội (1982–1993). Ông là một trong 4 nhà văn Quân đội nhân dân Việt Nam được phong Quân hàm Thiếu tướng, cùng với: Hồ Phương, Chu Phác, Nguyễn Chí Trung.[1]
Ông tên thật là Phạm Điệng, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1929 tại xã Hồng Phong, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông nhập ngũ quân đội khi mới 17 tuổi, từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ với cương vị là Chính trị viên Tiểu đoàn, trực tiếp chỉ huy đơn vị đánh chiếm đồi A1. Sau đó được phân công áp giải tù binh Pháp về Thanh Hóa. Cuộc áp giải này đã được ông thể hiện trong truyện ngắn "Cây số 42" – đây là một truyện ngắn xuất sắc và được chuyển thể thành phim. Sau đó Dũng Hà trở lại Điện Biên Phủ cùng đơn vị làm kinh tế, thời kỳ này được ông thể hiện trong tiểu thuyết "Mảnh đất yêu thương".
Thời kỳ Kháng chiến chống Mỹ, ông được điều động sang lực lượng Hải quân. Ngày 19 tháng 3 năm 1967, Binh chủng Đặc công được thành lập, ông được bổ nhiệm làm cán bộ chính trị, rồi Chủ nhiệm chính trị Binh chủng; trực tiếp tham gia lãnh đạo bộ đội đặc công ở chiến trường miền Trung. Năm 1973 khi đang giữ cương vị chỉ huy bộ đội đặc công ông viết và cho xuất bản tiểu thuyết "Sao Mai".
Năm 1975, Chiến tranh chống Mỹ chấm dứt, ông về làm Trưởng ban Ký sự lịch sử quân sự; năm 1982 ông được bổ nhiệm làm Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trong thời gian này ông được phong quân hàm Thiếu tướng.
Ông được nghỉ hưu năm 1993. Ông mất ngày 1 tháng 3 năm 2011 tại Hà Nội
“ | Ông cũng là người rất dễ gần – đằng sau cái vẻ ngoài như khô khan ấy là một trái tim dễ cảm, rộng lượng và cũng hay thương người. Và rất thẳng thắn, bộc trực, một là một, hai là hai, đến mức có những khi chú cháu ngồi trò chuyện với nhau, đôi khi tôi có cảm giác như ông còn hơi hồn nhiên khi nhìn vào cái cuộc đời và cái nghề viết thực ra trăm mối tơ vò dan díu của chúng ta hôm nay. | ” |
— Hồng Thanh Quang |
|url lưu trữ=
(trợ giúp)[liên kết hỏng]